Sáng kiến kinh nghiệm Rèn kĩ năng viết đúng chính tả cho học sinh Tiểu học

2. Mục tiêu, nhiệm vụ đề tài:

- Nắm bắt lỗi chính tả cơ bản thường hay mắc phải của học sinh, nguyên nhân của các lỗi đó để tìm ra biện pháp khắc phục.

- Vận dụng các nguyên tắc chính tả và luật chính tả, hình thành kĩ năng viết đúng chính tả cho học sinh.

- Soạn giáo án theo hướng đổi mới phương pháp và nội dung bài dạy cho sát thực và phù hợp với việc rèn kĩ năng viết đúng chính tả cho học sinh lớp 3.

 

doc 16 trang Người đăng hoanguyen99 Lượt xem 735Lượt tải 0 Download
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Rèn kĩ năng viết đúng chính tả cho học sinh Tiểu học", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 phong phú, hấp dẫn; mỗi bài văn, đoạn văn, bài thơ viết chính tả đều có tính giáo dục cao.
- Về phía học sinh, đa số các em chăm ngoan, có ý thức, tự tin trong học tập và đã biết viết chính tả từ năm học lớp 1 và lớp 2.
- Trong giảng dạy, giáo viên vận dụng đổi mới phương pháp dạy học, có sử dụng đồ dùng học tập trong giảng dạy, bài soạn phù hợp với đối tượng học sinh trong lớp, luôn cố gắng tìm tòi nghiên cứu biện pháp tốt để giúp học sinh viết đúng chính tả. 
- Tuy nhiên còn một vài học sinh đọc chậm và viết chậm.
- Qua các tiết giảng dạy và dự giờ phân môn Chính tả ở trường thì hầu hết các tiết dạy Chính tả được giáo viên đầu tư nhiều nhưng chủ yếu dựa vào Sách giáo khoa và Sách giáo viên là chính. Bên cạnh đó còn một số học sinh chưa nắm vững các quy tắc, mẹo luật chính tả để áp dụng vào bài viết hoặc bài tập. 
- Thời gian rèn phát âm đúng và chuẩn của giáo viên cho học sinh chưa nhiều.
- Bên cạnh đó, còn tồn tại một thực trạng phổ biến hiện nay là: Hầu hết giáo viên và học sinh chỉ phát âm đúng trong giờ Tập đọc và Chính tả còn các môn học khác và khi trao đổi hoặc trò chuyện cùng nhau thì phát âm theo kiểu bình thường của người địa phương cho nên việc phát âm không đúng chuẩn cũng ảnh hưởng rất lớn đến việc viết chính tả của học sinh.
b/ Thành công, hạn chế:
- Ta biết rằng trong quá trình dạy học, học sinh là nhân tố quan trọng nhất. Chính vì vậy sự tiến bộ và kết quả học tập tốt của người học chính là mục đích cuối cùng của người dạy. Trên thực tế đa số học sinh trong lớp đã biết đọc trôi chảy, to rõ, nắm được các quy tắc, mẹo luật chính tả để áp dụng vào bài viết cũng như bài tập từ năm lớp 1 và lớp 2. Trình bày vở sạch, đẹp.
- Tuy nhiên, vẫn còn một số hạn chế như còn một vài học sinh đọc chậm, dẫn đến viết chậm, viết sai các tiếng có vần khó, viết dối, chưa nắm vững các mẹo luật chính tả, chưa nắm được nghĩa của từ
- Vì đây là một trường ở vùng sâu của huyện nên đa số cha mẹ học sinh lo mưu sinh bằng nghề nông và công nhân nên chưa quan tâm nhiều đến việc học của các em.
c/ Mặt mạnh, mặt yếu:
- Nhà trường luôn tạo điều kiện tốt nhất cho giáo viên trong giảng dạy, thường xuyên tổ chức các buổi thao giảng, dự giờ cho giáo viên tham dự để trao đổi, học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau. 
- Cung cấp tương đối đầy đủ các thiết bị, đồ dùng dạy học.
- Giáo viên soạn bài đầy đủ theo tinh thần đổi mới, luôn đổi mới phương pháp dạy học, nghiên cứu bài kĩ trước khi đến lớp và sử dụng đồ dùng trong giảng dạy.
- Việc đổi mới phương pháp dạy học lấy học sinh làm trung tâm giúp các em phát triển tư duy, tính tích cực, sáng tạo trong học tập. Đa số học sinh có ý thức, tự tin trong học tập, luôn chuẩn bị chu đáo cho bài mới, tích cực trong học tập. Cơ bản các em nắm được quy tắc, các mẹo luật chính tả nên đã vận dụng tốt vào các bài viết chính tả cũng như các bài tập. Các em biết cách viết và trình bày vở Chính tả đúng, đẹp.
- Bên cạnh đó, vẫn còn một số em chưa ý thức được tầm quan trọng của môn Chính tả nên các em chưa có sự chuẩn bị và phương pháp học tốt, có em tư duy còn hạn chế, chưa nắm bắt được nội dung bài chính tả nên dẫn đến việc viết sai.
d/ Các nguyên nhân, các yếu tố tác động:
- Được Ban giám hiệu nhà trường quan tâm, chỉ đạo phải nâng cao chất lượng dạy và học.
- Học sinh được học 2 buổi/ ngày. 
- Phụ huynh học sinh mua sắm đầy đủ sách giáo khoa, đồ dùng học tập, tạo điều kiện thuận lợi cho các em đến trường học tập.
- Phần đông học sinh chăm chỉ, luôn có ý thức trong học tập.
- Đa số các em là con nhà nông, công nhân. Cuộc sống gia đình còn nhiều khó khăn. Bên cạnh còn một số phụ huynh chưa quan tâm nhiều đến việc học tập của các em, chưa tạo điều kiện tốt cho con em mình học tập.
- Đường sá ở nông thôn đi lại còn khó khăn, học sinh chủ yếu là sinh hoạt và học tập tại trường. 
- Học sinh chưa biết sắp xếp thời gian tự bồi dưỡng và học tập tại nhà. Do đó, việc học của các em còn hạn chế.
e/ Phân tích, đánh giá các vấn đề:
- Được Ban giám hiệu nhà trường quan tâm, luôn tạo điều kiện thuận lợi cho giáo viên trong công tác giảng dạy. Tổ chuyên môn thường xuyên tổ chức các buổi dự giờ, thao hội giảng, học tập chuyên đề nhằm tạo điều kiện cho giáo viên được giao lưu, học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau.
- Giáo viên soạn bài đầy đủ theo tinh thần đổi mới, nghiên cứu bài kĩ trước khi đến lớp và sử dụng đồ dùng trong giảng dạy.
- Nhà trường cung cấp tương đối đầy đủ về cơ sở vật chất cũng như đồ dùng dạy học nhằm phục vụ tốt cho công tác giảng dạy. 
- Việc đổi mới phương pháp dạy học của giáo viên giúp học sinh phát triển tư duy và sáng tạo.
- Chương trình Sách giáo khoa Tiếng việt 3 có nội dung của phân môn Chính tả phong phú, hấp dẫn có tính giáo dục cao.
- Đa số học sinh chăm chỉ, luôn có ý thức trong học tập, yêu thích phân môn Chính tả. 
- Học sinh có đầy đủ sách giáo khoa, dụng cụ học tập. Phần đông các em đã biết đọc lưu loát, thành thạo và nắm được nội dung bài Chính tả cũng như luật chính tả.
3. Giải pháp, biện pháp:
3.1/ Mục tiêu của giải pháp, biện pháp:
- Rèn luyện kĩ năng viết đúng chính tả.
- Kết hợp luyện tập chính tả với việc rèn luyện cách phát âm, củng cố nghĩa từ. Phát triển một số thao tác tư duy cho học sinh.
- Bồi dưỡng cho học sinh một số đức tính và thái độ cần thiết trong công việc như: cẩn thận, chính xác, óc thẩm mĩ, lòng tự trọng và tinh thần trách nhiệm.
3.2/ Nội dung và cách thức thực hiện:
Từ những biện pháp đã trải nghiệm, qua sự học hỏi từ bạn bè đồng nghiệp cũng như dựa vào tìm hiểu, điều tra, cập nhật tình hình học sinh của lớp, tôi đưa ra cách rèn kĩ năng viết đúng chính tả cho học sinh lớp 3 với các biện pháp thực hiện như sau:
a. Tăng cường đổi mới phương pháp dạy học: 
Bản thân luôn học hỏi để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, nghiên cứu các tài liệu có liên quan đến chuyên môn, tham dự đầy đủ các buổi thao giảng, dự giờ do ngành, trường tổ chức nhằm trao đổi, học hỏi kinh nghiệm từ phía bạn bè, đồng nghiệp. Bên cạnh đó, tôi cũng tăng cường đổi mới phương pháp dạy học, đảm bảo chuẩn kiến thức kĩ năng, lựa chọn phương pháp phù hợp với từng đối tượng học sinh của lớp, soạn giảng bài tập thích hợp với phương ngữ vùng miền, sử dụng đồ dùng trong dạy học. Giảng dạy lấy học sinh làm trung tâm, phát huy tính tích cực, sáng tạo của học sinh, tạo không khí lớp học vui tươi, thoải mái, nhẹ nhàng, khuyến khích học sinh tham gia phát biểu ý kiến xây dựng bài và giúp các em tự tin hơn trong học tập.
b. Rèn kĩ năng viết đúng chính tả:
Viết đúng chính tả là một biểu hiện của người có văn hóa, đồng thời thể hiện sự tôn trọng Tiếng Việt.
* Luyện phát âm:
	Xuất phát từ tình hình thực tế mắc lỗi chính tả của học sinh, giáo viên hình thành nội dung giảng dạy, xác định các trọng điểm chính tả cần dạy cho học sinh theo khu vực, địa phương mình. Như chúng ta biết cách phát âm địa phương có ảnh hưởng trực tiếp đến việc viết chính tả của các em, cách phát âm của các vùng miền đều có những chỗ chưa chuẩn xác, còn sai lệch. Từ đó giáo viên tập trung vào các lỗi phát âm sai của học sinh để nhắc nhở các em lưu ý đọc cho đúng. Trong phần luyện phát âm giáo viên yêu cầu học sinh tăng cường luyện đọc, luyện đọc bất kì một đoạn văn, bài văn nào có trong chương trình hoặc không có trong chương trình, kết hợp với tìm hiểu nghĩa của từ có trong đoạn văn. Song song với luyện đọc giáo viên cũng cần dành một chút thời gian để hướng dẫn các em nghe đọc, nghe nói để các em dần dần có được kĩ năng phân biệt cách phát âm. Trong các tiết học giáo viên phải chú ý nhiều hơn việc luyện phát âm cho học sinh bằng cách đọc nhấn giọng hoặc kết hợp khẩu hình miệng. Để phân biệt các thanh (thanh ngã đọc nhấn giọng và dài hơi hơn thanh hỏi), âm đầu (âm tr cần đưa lưỡi lên vòm miệng, âm s đọc cong lưỡi, phát hơi, âm r đọc cong lưỡi, lấy hơi, âm gi đọc xì hơi ra), âm chính, âm cuốiNgoài ra tôi còn chọn một số học sinh có giọng phát âm tương đối chuẩn để đọc mẫu trước lớp và hỗ trợ tôi trong việc rèn phát âm cho các bạn trong lớp. 
Việc rèn phát âm không chỉ được thực hiện trong tiết Tập đọc mà còn phải thực hiện thường xuyên, liên tục và lâu dài trong tất cả các tiết học như Chính tả, Luyện từ và câu, Tập làm văn,Với những học sinh có vấn đề về mặt phát âm (nói ngọng, nói lắp,) thì giáo viên lưu ý nhiều hơn cho các em chú ý nghe cô phát âm để viết cho đúng. Vì vậy giáo viên phải phát âm rõ ràng, tốc độ đọc vừa phải để học sinh viết đúng chính tả.
* Phân tích, so sánh:
	Kĩ năng phân tích, so sánh có vai trò rất quan trọng, nó quyết định học sinh có viết đúng chính tả hay không. Để có được kĩ năng này các em phải hiểu nghĩa của từ. Từ đó các em mới phân biệt được các từ mang nghĩa khác nhau. Với những từ ngữ khó, dễ nhầm lẫn tôi hướng dẫn phân tích cấu tạo tiếng, so sánh các tiếng đó với nhau để tìm ra những điểm khác nhau.
	Ví dụ: Tiếng “dành” và “giành”
	- dành: âm d - vần anh - thanh huyền. Nghĩa là khi ta muốn giữ lại cái (điều) gì đó.
	Ví dụ: dành dụm, để dành,
- giành: âm gi - vần anh - thanh huyền. Nghĩa là nói đến sự nỗ lực, cố gắng để đạt được điều gì đó.
	Ví dụ: giành giải thưởng, giành giựt,
Bên cạnh đó, tôi còn sử dụng đồ dùng dạy học như tranh, ảnh, vật thật, nhằm để phát huy tính tích cực, kích thích sự tò mò, tư duy tìm hiểu của học sinh.
* Giải nghĩa từ:
	Việc giải nghĩa từ thường được thực hiện trong tiết Chính tả. Ngoài ra nó còn có trong tiết Luyện từ và câu, Tập đọc và Tập làm văn. Có nhiều cách để giải nghĩa từ cho học sinh hiểu. Có thể cho các em đọc phần chú giải, đặt câu, (nếu học sinh đặt câu đúng có nghĩa là học sinh đã hiểu nghĩa từ), tìm từ đồng nghĩa, trái nghĩa, tả đặc điểm giáo viên có thể sử dụng vật thật, mô hình, tranh ảnh để giúp các em hiểu nghĩa từ được rõ ràng hơn.
	Ví dụ: chanh/tranh, gián/rán/dán,
	- chanh: là quả chanh
	- tranh: nhà tranh
	Ví dụ: gián/rán/dán,
	- gián: con gián
	- rán: rán cá (chiên cá)
	- dán: dán giấy
	Ví dụ: Bài Nhà rông ở Tây Nguyên. Sách Tiếng việt 3 - Tập 1 -Trang 127
Phân biệt từ chiêng và chiên
	Giáo viên cho học sinh quan sát tranh cái chiêng
	- Chiêng là nhạc cụ bằng đồng, hình tròn, đánh bằng dùi, âm thanh vang dội.
	- Chiên là làm chín thức ăn bằng cách cho thức ăn vào chảo dầu, mỡ đun trực tiếp trên bếp lửa.
	Với những từ nhiều nghĩa, giáo viên phải đặt từ đó trong văn cảnh cụ thể để giải nghĩa từ.
* Ghi nhớ mẹo, luật chính tả:
	Muốn học sinh học tốt phân môn Chính tả thì trước hết giáo viên phải viết tốt chính tả và phải thật am tường về các mẹo, luật chính tả đồng thời luôn rèn chữ viết đúng, đẹp. Đây là biện pháp hữu hiệu và lâu bền nhất. Bên cạnh đó giáo viên phải luôn nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ sư phạm để áp dụng vào bài dạy nhằm hạn chế đến mức thấp nhất việc học sinh viết sai lỗi chính tả.
Mẹo luật chính tả là các hiện tượng chính tả mang tính qui luật chi phối hàng loạt từ. Khi giáo viên hướng dẫn kĩ phần này cho học sinh nắm vững sẽ giúp học sinh khắc phục lỗi chính tả một cách rất hữu hiệu. Ngay từ lớp 1, lớp 2 các em đã được học với luật chính tả đơn giản. Đây cũng là điều kiện tốt để học sinh tiếp tục học ở lớp 3. Để đạt được hiệu quả cao trong việc rèn viết đúng chính tả cho học sinh lớp 3 thì giáo viên phải tiếp tục củng cố và truyền đạt thêm cho học sinh những mẹo, luật chính tả sau:
 Quy tắc ghi phụ âm đầu:
+ Qui tắc viết: k/c/q
Được ghi bằng ba hình thức khác nhau, nhưng phổ biến nhất là bằng chữ cái c.
- C viết trước các nguyên âm: a, ă, â, o, ô, ơ, u, ư, uô, ưa.
Ví dụ: cái ca, căn dặn, cái cân, nằm co, cô giáo, cơ quan, ông cụ, cử tạ, cuộc đua, cái cưa
- K viết trước nguyên âm i, e, ê, iê, ia.
	Ví dụ: kỉ niệm, thước kẻ, truyện kể, kiên cố, ngoài kia
- Q viết trước âm đệm u được ghi bằng q 
Ví dụ: quả cam, cơ quan, quên làm, yêu quý
+ Qui tắc viết g, gh:
	- G viết trước các nguyên âm: a, ă, â, o, ô, ơ, u, ư 
	Ví dụ: con gà, cố gắng, xa gần, gõ cửa, gốc cây, gờ, gụ, củ gừng
	- Gh viết trước các nguyên âm i, e, ê 
	Ví dụ: ghi nhớ, ghé vào, cái ghế
+ Qui tắc viết ng, ngh :
	- Ng viết trước nguyên âm: a, ă, â, o, ô, ơ, u, ư, ưa, ưu
	Ví dụ: té ngã, ngăn tủ, ngân hàng, rau ngò, bỡ ngỡ, đi ngủ, cá ngừ, con ngựa, ngưu
	- Ngh viết trước nguyên âm: e, ê, i, iê, eo
Ví dụ: lắng nghe, củ nghệ, nghỉ hè, nghiêng nghiêng, nhà nghèo
	+ Mẹo nhóm nghĩa ch/ tr:
	- Những từ chỉ quan hệ thân thuộc trong gia đình thì viết là ch
	Ví dụ: cha, chú, chị, cháu, chồng,
	- Những từ chỉ đồ vật trong gia đình và tên con vật đều bắt đầu bằng ch
	Ví dụ: chai, chum, chén, chổi, chảo, chiếu, chuông, chiêng, chuột, chồn, chó, chuồn chuồn, châu chấu, chích chòe, chèo bẻo, chìa vôi,
	- Những từ chỉ vị trí viết là tr
	Ví dụ: trên, trong, trước,
Ví dụ: Bài tập: Chọn tr hay ch điền vào chỗ trống:
	Mặt tròn, mặt lại đỏ gay
	Ai nhìn cũng phải nhíu mày vì sao
	Suốt ngày lơ lửng trên cao
	Đêm về đi ngủ, chui vào trong mây.
	+ Mẹo nhóm viết s/ x:
	- Tên thức ăn và đồ dùng nấu ăn viết là x
	Ví dụ: xôi, xúc xích, xì dầu, xoong,
	- Các động từ, tính từ thường viết là x
	Ví dụ: xem, xách, xẻ, xay, xào, xoa, xúc, xanh,
	- Hầu hết các danh từ còn lại đều viết là s
	Chỉ người: sứ giả, đại sứ, sư sải, giáo sư, gia sư,
	Chỉ cây cối: sen, sung, sấu, sắn, sim, si,
	Chỉ đồ vật: sọt, sợi dây, sợi vải,
	Chỉ sự vật, hiện tượng: sao, sương, sông, suối, sấm sét,
Có một số trường hợp ngoại lệ là danh từ nhưng lại viết là x: xe, xuồng, túi xách, xẻng, xã, trạm xá,
	+ Mẹo nhóm viết d/r/gi:
	Trong trường hợp này ta cần nhớ nghĩa và cách viết tương ứng, muốn xác định cách viết đúng phải dựa vào sự đối lập về nghĩa
	Gia (nghĩa là tăng thêm): gia hạn, gia tăng, tham gia, gia vị,
	Gia ( nghĩa là nhà): gia đình, gia trưởng, gia tài, gia sư,
	Da (lớp vỏ bên ngoài): da thịt, da mặt, da dẻ,
	Ra (sự di chuyển): ra vào, ra sân, ra chơi, ra ngoài,
+ Mẹo nhóm viết l/n:
Phân biệt nghĩa theo chữ ghi âm đầu l/n
Ví dụ: không lên / không nên, cái lá / cái ná, con la / quả na,
	+ Quy tắc viết chính tả âm cuối n/ng:
	Ví dụ: con trăn / ánh trăng, cái bàn / cây bàng, tan lễ / tang lễ,
+ Quy tắc viết âm đệm u, o:
- U viết sau chữ q: 
Ví dụ: quang đãng, hành quân,
- U đứng trước các nguyên âm â, ê, y, yê, ya: 
Ví dụ: huân chương, luân chuyển, hoa huệ, trí tuệ, huy chương, lũy tre, luyện tập, câu chuyện, trời khuya, 
- O đứng trước các nguyên âm a, ă, e:
Ví dụ: cái loa, bông hoa, khỏe khoắn, tóc xoăn, sức khỏe, xòe tay,
+ Quy tắc viết một số nguyên âm là âm chính: 
- Nguyên âm a khi đứng trước y và u 
Ví dụ: hát hay, bàn tay, hoa cau, bà cháu, 
+ Quy tắc viết nguyên âm đôi: iê, uô, ua, ưa, ươ, ia
- Viết iê liền sau âm đầu trước âm cuối
Ví dụ: chiến công, tiên tiến, tiếng hát, xanh biếc, viết bài, 
- Viết uô khi có âm cuối
Ví dụ: cái cuốc, tuốt lúa, quả chuối, luôn luôn, rau muống, nhuộm vải,
- Viết ua khi không có âm cuối
Ví dụ: con cua, của cải, mua bán,
- Viết ưa khi không có âm cuối
Ví dụ: trời mưa, quả dưa,
- Viết ươ khi có âm cuối
Ví dụ: yêu nước, lướt thướt, vườn hoa, tình thương, con bướm, tưới cây, quả bưởi, cướp cờ,
	- Viết ia khi không có âm cuối
	Ví dụ: cây mía, chia tay,
- Nguyên âm đôi có âm cuối đi kèm 
 Ví dụ: dưới, triều, nước, tướng, chiến, phương,...
- Nguyên âm đôi không có âm cuối đi kèm
Ví dụ: nửa, của,
- Nguyên âm đôi đi sau âm đệm 
Ví dụ: thuyền, quyền,
	+ Mẹo tương ứng thanh điệu trong từ láy: (Luật bổng-trầm)
	- Đối với học sinh thường viết sai thanh hỏi, thanh ngã tôi thường hướng dẫn các em phân biệt cách phát âm hai dấu thanh này (thanh ngã đọc nhấn giọng và dài hơi hơn thanh hỏi). Ngoài ra tôi còn cho học sinh học thuộc luật chính tả với thanh hỏi, thanh ngã là: ngang-sắc-hỏi (có nghĩa là tiếng không có dấu thanh hoặc có thanh sắc thì thường đi với tiếng có thanh hỏi) huyền-ngã -nặng (có nghĩa là tiếng có thanh huyền hoặc thanh nặng thường đi chung với tiếng có thanh ngã). Nhưng luật trên chỉ mang tính tương đối, chứ không phải tuyệt đối.
Trong các từ láy đôi, các dấu thanh bao giờ cũng cùng một nhóm (trầm) huyền-ngã-nặng hoặc (bổng) sắc-hỏi- không dấu. Để học sinh nhớ được 2 nhóm này giáo viên có thể cho các em học thuộc câu thơ sau:
	Chị Huyền mang nặng ngã đau
Hỏi không sắc thuốc lấy đâu mà lành.
	* Bổng:
Ví dụ: Ngang + hỏi: nho nhỏ, vẩn vơ, mải mê, tuổi thơ,
	Sắc + hỏi: mải miết, chải chuốt, trút bỏ,
	Hỏi + hỏi: đủng đỉnh, hổn hển, thủ thỉ, rủ rỉ,
	* Trầm:
	Ví dụ: Huyền + ngã: sững sờ, thẫn thờ, lững lờ, 
	Nặng + ngã: nhẹ nhõm, đẹp đẽ, mạnh mẽ, lạnh lẽo,
	Ngã + ngã: rỗi rãi, nghễnh ngãng, nhõng nhẽo,
	Ví dụ: Bài Chính tả Chiếc áo len. Sách Tiếng Việt 3 - Tập 1 - Trang 22
Bài tập 2/b: Đặt trên chữ in đậm dấu hỏi hay dấu ngã ? Giải câu đố.
	Vừa dài mà lại vừa vuông
	Giúp nhau kẻ chỉ, vạch đường thẳng băng.
	(là cái thước kẻ)
	Tên nghe nặng trịch
	Lòng dạ thẳng băng
	Vành tai thợ mộc nằm ngang
	Anh đi học vẽ, sẵn sàng đi theo.
	(là cái bút chì)
	+ Mẹo (Mình nên nhớ viết là dấu ngã):
	Mẹo, luật chính tả thường khó nhớ. Vì thế trong quá trình giảng dạy tôi thường xuyên nhắc nhở, khuyến khích các em luyện viết nhiều lần để tạo thói quen dùng đúng từ, đúng dấu thanh,Ở đây giáo viên có thể cho học sinh học thuộc câu sau đây nhằm giảm bớt lỗi chính tả cho học sinh.
	Với m (mình): mẫn cảm, mãnh liệt, mạnh mẽ, mĩ thuật, mĩ mãn,
	Với n (nên): nỗ lực, phụ nữ, nỗi niềm,
	Với nh (nhớ): nhẫn nại, nhiễm bệnh, tham nhũng, truyền nhiễm,
	Với v (viết): vĩ đại, vĩ nhân, vĩ tuyến, vỗ tay, vũ trụ, cổ vũ,
	Với l (là): lã chã, thung lũng, lưỡng lự, lãng mạn, ông lão
Với d (dấu): dưỡng sinh, dũng cảm, dã man, diễm phúc, dã thú,
	Với ng (ngã): té ngã, ngỡ ngàng, ngưỡng mộ, ngôn ngữ, đội ngũ,
	+ Quy tắc viết hoa danh từ riêng:
Viết đúng chính tả không chỉ là cách viết đúng tiếng từ mà gồm cả cách viết hoa, cách dùng dấu câu. Vì thế tôi luôn nhắc nhở học sinh không nên viết hoa tuỳ tiện. Bên cạnh đó, tôi kết hợp với giảng dạy phân môn Luyện từ và câu để hướng dẫn học sinh cách sử dụng dấu câu và viết hoa cho đúng. 
Viết hoa chữ cái đầu của tiếng đầu câu
Ví dụ: Đường lên dốc trơn và lầy. Người nọ đi tiếp sau người kia.
Viết hoa tên người Việt Nam: Viết hoa chữ cái đầu của mỗi tiếng.
Ví dụ: Nguyễn Ái Quốc, Võ Thị Sáu,
Viết hoa tên địa lí Việt Nam
Ví dụ: Hà Nội, Hạ Long, Cần Thơ,
Viết hoa trong phiên âm tên người và tên địa lí nước ngoài: Ta cần viết hoa chữ cái đầu tiên của tiếng thứ nhất, giữa các tiếng có gạch nối.
Ví dụ: Cô-rét-ti, En-ri-cô, Cam-pu-chia, In-đô-nê-xi-a,
Viết hoa để tỏ sự tôn trọng
Ví dụ: Việt Nam đẹp nhất tên Người, Hai Bà Trưng,
(Tiếng Người không phải tên riêng nhưng để bày tỏ sự tôn trọng đối với Hồ Chủ Tịch thì viết hoa).
Điều quan trọng là giáo viên thường xuyên nhắc nhở học sinh viết đúng chính tả và chú ý chữa lỗi chính tả cho học sinh mặc dù đang học phân môn khác. 
Trên đây là những mẹo luật chính tả cơ bản. Tuy nhiên những mẹo luật này cũng có những trường hợp ngoại lệ không phải là tuyệt đối. Cho nên khi viết chính tả giáo viên cũng phải nhắc nhở học sinh chú ý viết cho đúng.
	+ Luyện tập thực hành:
	Ngay từ đầu năm học, tôi căn cứ vào tình hình thực tế của học sinh để thành lập trọng điểm chính tả cần dạy, xây dựng nội dung bài tập phù hợp với phương ngữ và đối tượng học sinh của lớp.
Ví dụ: Bài Chính tả Tiếng ru. Sách Tiếng Việt 3 - Tập 1 - Trang 68
Bài tập 2/b: Tìm các từ chứa tiếng có vần uôn hoặc uông có nghĩa như sau:
- Sóng nước nổi lên rất mạnh, từng lớp nối tiếp nhau: là cuồn cuộn
- Nơi nuôi, nhốt các con vật: là chuồng
- Khoảng đất dài được vun cao lên để trồng trọt: là luống
Ví dụ: Bài Chính tả: Nhớ Việt Bắc. Sách Tiếng Việt 3 - Tập 1 - Trang 120
Bài tập 3/b: Điền vào chỗ trống i hay iê
- Chim có tổ, người có tông.
- Tiên học lễ, hậu học văn.
- Kiến tha lâu cũng đầy tổ.
Ví dụ: Bài Chính tả Về quê ngoại. Sách Tiếng Việt 3 - Tập 1 - Trang 137
Bài tập 2/b: Đặt dấu hỏi hay dấu ngã trên các chữ in đậm ? Giải câu đố.
	Cái gì mà lưỡi bằng gang
	Xới lên mặt đất những hàng thẳng băng.
	Giúp nhà có gạo để ăn
	Siêng làm thì lưỡi sáng bằng mặt gương.
	(là cái lưỡi cày)
	Thuở bé em có hai sừng
	Đến tuổi nửa chừng mặt đẹp như hoa
	Ngoài hai mươi tuổi đã già
	Gần ba mươi lại mọc ra hai sừng.
	(là mặt trăng)
* Quan tâm, nhắc nhở, theo dõi học sinh thiếu tập trung hoặc viết theo thói quen:
	Việc học sinh thiếu tập trung trong giờ viết chính tả cũng là một nguyên nhân dẫn đến việc viết sai chính tả. Vì các em không chú ý lắng nghe giáo viên đọc dẫn đến việc viết thiếu từ, viết không đúng từ, thiếu dấu, thiếu nét hoặc viết dấu hỏi thành dấu ngã, dấu ngã thành dấu hỏi Trong trường hợp này giáo viên cần quan tâm nhắc nhở thường xuyên, hỗ trợ giúp các em chú ý hơn trong tiết học. Tạo không khí lớp học vui tươi, thoải mái, thân thiện nhưng không kém phần sôi nổi trong từng tiết học.
* Nguyên tắc dạy chính tả gắn liền với việc phát triển tư duy:
Phát triển tư duy cho học sinh gắn liền với sự hướng dẫn của giáo viên trong quá trình dạy học nhằm đảm bảo kết quả việc tiếp thu và vận dụng lí thuyết vào hoạt động thực tiễn. Khi phân tích luyện tập, sửa chữa hoặc cung cấp kiến thức mới cần tiến hành theo một số thao tác tư duy để kích thích sự hứng thú tìm hiểu của học sinh, giúp các em nắm chắc các hiện tượng và tìm ra cách giải quyết đúng đắn các hiện tượng đó. Tránh áp đặt máy móc những qui tắc mà học sinh chưa được gợi mở và suy nghĩ nên để các em thực hiện một cách tự giác. Giúp học sinh nhận thức việc học là bổn phận của mình.Trong quá trình dạy Chính tả giáo viên thường xuyên dẫn dắt học sinh chiếm lĩnh các qui tắc Chính tả và ghi nhớ áp dụng vào việc viết văn bản bằng thao tác hệ thống tư duy hợp lí.
* Rèn cho học sinh có ý thức tự học, tự tin vào bản thân:
	Dựa vào tâm lí của học sinh tiểu học, đa phần các em thích được khen, được tự khẳng định mình. Giáo viên giúp các em tự tin ở bản thân, hướng dẫn các em tự luyện đọc, viết bài chính tả trước ở nhà dưới sự kiểm soát của gia đình. Đây là việc rèn luyện ý thức tự học của các em. 
Giáo viên phải hoà mình gần gũi với học sinh khuyến khích động viên các em học tập, khen thưởng kịp thời, nhắc nhở đúng lúc. Tổ chức các trò chơi cho các em hứng thú trong học tập, tạo cho học sinh niềm vui, niềm tin trong học tập. Các em cảm nhận nhà trường là mái ấm là nguồn vui không thể thiếu. Các em ngày càng yêu

Tài liệu đính kèm:

  • docSANG_KIEN_KINH_NGHIEM.doc