Sáng kiến kinh nghiệm - Kinh nghiệm giúp đỡ học sinh yếu

Đất nước ta đang ở trong giai đoạn mới , mở cửa giao lưu với các dân tộc và các nền văn hóa khác nhau trên thế giới không phân biệt màu da hay tiếng nói . Dân tộc ta đang phấn đấu vươn lên quyết tâm vượt nhanh thoát khỏi tình trạng đói nghèo và tụt hậu. Muốn theo kịp nhân loại , để có thể sánh vai được với các cường quốc năm châu thì trước hết dân trí phải được nâng cao dần , đòi hỏi lớp trẻ phải có tri thức , có hiểu biết nhất định. Muốn được như thế thì không gì khác hơn là trẻ em phải học tập thật giỏi , hạn chế đến mức thấp nhất số luợng học sinh học yếu kém . Càng có nhiều học sinh học tốt thì viễn cảnh tốt đẹp của đất nước , tương lai tươi sáng của dân tộc càng rõ nét . Có học giỏi thì trong tư duy và hành động của các em mới thể hiện được nét văn hóa tiến bộ, mới có thể tiếp thu được những kiến thức mới , văn minh , không để bè bạn trên các quốc gia khác xem thường mình . Một lớp học có nhiều học sinh học kém thì kéo theo sự chán học , ảnh hưởng nhiều đến cả lớp , dẫn đến các em học giỏi cũng không còn hướng để phấn đấu nữa . Một trường mà có nhiều học sinh học yếu thì uy tín của trường chẳng còn và lực lượng giáo viên cũng sẽ dạy kém theo . Hiện tượng học sinh học yếu kém rất phổ biến ở nhiều trường nhất là các trường thuộc vùng núi , vùng sâu như trường tôi đang giảng dạy.Đời sống nhân dân ở đây còn quá nhiều khó khăn.Do lo toan cuộc sống ,nhiều người phó mặc việc học của con em cho những người làm công tác Phổ cập giáo dục với suy nghĩ không học ở trường thì học bổ túc có sẵn người lo về sách vở , bút thước . cần gì quan tâm đến việc con mình học yếu hay học kém . Không ít người còn đùn đẩy trách nhiệm cho nhà trường ,cho xã hội mà chủ yếu nhất là người giáo viên đứng lớp. Đó là vấn đề đưa đến tình trạng học sinh học yếu phổ biến ở các khối lớp , đặc biệt là ở lớp cuối cấp Tiểu học . Là giáo viên nhiều năm dạy ở khối lớp này tôi thật vất vả với tình trạng học yếu kém của học sinh . Học đến lớp Năm rồi vẫn còn tình trạng đọc ê a , tính toán còn phải đếm tay từng ngón hay , còn đọc lẫn lộn bảng nhân . ; thật là nan giải vì với trình độ như thế thì làm sao tiếp thu được những kiến thức cần thiết của lớp cuối cấp được . Hơn nữa , có nhiều học sinh học kém ở lớp mình chủ nhiệm thì không thể nào phấn đấu dự thi tay nghề ở các cấp được , không thể hoàn thành nhiệm vụ mà nhà trường và xã hội giao cho . Đó là điều trăn trở suy nghĩ thường xuyên của tôi . Làm như thế nào đây để lớp mình không có học sinh nào học yếu ở cuối năm ?

Qua kinh nghiệm được rút ra từ nhiều năm giảng dạy ở lớp cuối cấp, từ thành công và hạn chế của những người đi trước ; đồng thời nhờ tích cực tìm tòi những biện pháp sáng tạo phù hợp với lớp , với trường , với đặc thù riêng của địa phương , 3 năm trở lại đây các lớp tôi chủ nhiệm đã có nhiều thành tích cao như : tốt nghiệp 100% , cuối năm không có học sinh yếu ; các em bước vào trường cấp II luôn đạt được thành tích cao về thi học sinh giỏi và đa số đều đến trường học tiếp hết bậc THCS không có hiện tượng bỏ học giữa chừng .

 

doc 16 trang Người đăng honganh Lượt xem 1294Lượt tải 0 Download
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm - Kinh nghiệm giúp đỡ học sinh yếu", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ờ cho các em . Với cách làm này, nhiều học sinh kém cần học thêm thì lại không chịu đi học hoặc học vài ngày là nghỉ . Khi giáo viên chủ nhiệm nhắc nhở thì các em lại đưa ra nhiều lý do như là : bận giúp cha mẹ , nhà xa....Nhắc nhở phê bình các em mãi cũng chẳng mấy thay đổi và thường dửng dưng không tỏ thái độ buồn vui gì . Vậy phải làm gì với những học sinh này ? Qua quá trình tìm hiểu về hoàn cảnh gia đình , môi trường sống chung quanh , qua giáo viên những năm trước và nhất là biết rõ về sự phát triển tâm lý riêng của từng em . Tôi nhận ra rằng muốn phụ đạo học sinh yếu đạt kết quả không phải là dễ dàng , phải tìm rõ nguyên nhân sâu xa và phải tìm được cách giáo dục phù hợp nhất . Tôi phát hiện có một số nguyên nhân chủ yếu dẫn đến học kém như sau :
+ Các em chưa có thái độ đúng đối với việc học còn lơ là , chán ghét việc học .
+ Bị dụ dỗ bởi bạn bè xấu và những trò chơi hiện đại như : điện tử , bi da , xem phim ở các quán cà phê ... thường trốn học nên bị hỏng nhiều kiến thức .
+ Cha mẹ một số em do ít học , do mải mê công tác ở cơ quan hoặc bận rộn với việc buôn bán , kinh doanh .... ít có điều kiện để răn dạy quan tâm ; thậm chí có người cho con em mình ăn qua loa bằng những bữa cơm phần được mua ở chợ hay tùy các em thích gì ăn nấy không chú ý đến dinh dưỡng . Từ đó đã dẫn đến trí tuệ chậm phát triển , tính toán chậm , học bài lâu thuộc , lâu hiểu .
+ Do bị hỏng kiến thức cơ bản dẫn đến tình trạng các em không hiểu nội dung các qui tắc , câu hỏi nên các em không thể giải được các bài toán, thường viết sai chính tả , câu nghèo ý , sử dụng từ không chính xác , phát âm sai ... Do các em không chỉ ra được mối liên hệ giữa những con số,những dữ liệu có liên quan trong bài toán. Có thể các em nhớ được các từ và các con số trong các bảng hệ thống nhưng lại không biết vận dụng kiến thức đã học vào những bài luyện tập thực hành . Nhiều khi bài toán chỉ cần thay đổi vài số liệu hay cách diễn đạt cũng làm các em lúng túng .
+ Đặc biệt nguyên nhân chủ quan dẫn đến có nhiều học sinh học yếu là do giáo viên chúng ta chưa có phương pháp dạy học tốt , không giúp các em hứng thú trong học tập , chưa làm cho các em thấy yêu thích giờ học .
+ Ngoài ra , do hiểu sai chủ trương từ nhiều năm trước đây của ngành là hạn chế học sinh lưu ban ; nhà trường và giáo viên cứ xét cho học sinh lên lớp ở cuối năm dù học rất yếu ; dẫn đến tình trạng lên đến lớp cuối cấp các em bị hỏng nhiều kiến thức mặc dù hàng năm đều được các giáo viên phụ đạo .
Qua các đặc điểm của những nguyên nhân trên , tôi nhận thấy muốn các em có sự tiến bộ trong học tập theo kịp các bạn cùng lớp cần phải có các điều kiện sau :
- Cần được sự quan tâm của mọi người : Thầy cô , người thân và gần gũi nhất là bạn bè cùng học một lớp .
-Dụng cụ học tập và phương tiện học tập phải đầy đủ hỗ trợ tốt cho học tập .
-Môi trường sống cần trong sáng , lành mạnh nhằm đảm bảo phát triển trí tuệ và có nhiều thói quen tốt hơn .
-Giáo viên chủ nhiệm phải cải tiến phương pháp giảng dạy để tạo sự hứng thú trong học tập cho các em , đồng thời thường xuyên quan tâm hướng dẫn các em biết cách học tập một cách khoa học sẽ mang lại nhiều hiệu quả hơn. 
Để đạt được các điều kiện trên , trong các năm qua , tôi đã cùng đồng nghiệp trao đổi , học hỏi , thông qua các tài liệu , sách , báo , tham khảo các chuyên san... luôn trăn trở làm thế nào để hạ thấp nhất tỷ lệ học sinh yếu và không còn học sinh yếu . Từ khi tìm được một số biện pháp phù hợp để giúp đỡ học sinh yếu , tôi đã đạt được một số thành tích rất tốt .
II /. BIỆN PHÁP TIẾN HÀNH ĐỂ HẠN CHẾ HỌC SINH YẾU: 
1/- Tìm hiểu về đối tượng :
-Đầu năm tôi nắm rõ lý lịch trích ngang của từng đối tượng học sinh , đến thăm gia đình tạo mối quan hệ tốt , nắm được hoàn cảnh gia đình và đời sống xung quanh mà các em luôn tiếp cận hàng ngày , tìm hiểu những khó khăn mà các em còn vướng mắc chưa giải quyết được .
- Tôi tìm hiểu tâm lý , cá tính , thói quen , tư duy ngôn ngữ ... của tất cả học sinh học yếu để có hướng uốn nắn , giáo dục .
-Phân loại từng đối tượng yếu ở môn nào , kiến thức cơ bản nào bị hỏng do bỏ học nhiều hay có em vừa học kém lại vừa có thái độ học tập không tốt , có em thái độ học kém do không muốn học ... . Cũng có em học yếu là do bị một số các khuyết tật như : lãng tai , mắt kém , nói lắp . Nắm rõ nguyên nhân của từng đối tượng tôi sẽ có hướng bồi đắp đồng thời phát huy khả năng vốn có ở các em .
-Tất cả những gì tìm hiểu được , đặc biệt là đối với học sinh yếu , tôi đều ghi vào sổ tay theo dõi riêng . Đánh dấu sao cần chú ý ở một số em cá biệt , có hiện tượng khó phụ đạo cần quan tâm hơn .
2/- Nhờ sự giúp đỡ của nhiều thành viên trong và ngoài nhà trường:
 -Đối với các em thiếu dụng cụ học tập , tôi trao đổi với cán bộ thư viện mượn sách giáo khoa hoặc nhờ Đội TNTP tổ chức phong trào xin sách của học sinh lớp 5 học ở năm học trước nhằm giúp các em có đầy đủ sách , nhờ đó có thể theo dõi tốt các bài giảng ở lớp cũng như tham khảo thêm ở nhà. 
 -Liên hệ với Ban giám hiệu , Hội phụ huynh học sinh , các mạnh thường quân hỗ trợ tặng cặp , sách vở , dụng cụ học tập ... cho những em có hoàn cảnh khó khăn , nghèo túng . 
 -Giới thiệu các em tham gia phong trào Đội TNTP , tạo ở các em có một mối quan hệ tốt với tập thể ( chủ yếu là bạn bè ) , nhằm được giúp đỡ trong học tập khắc phục được những hạn chế , yếu kém . Cùng Đội tổ chức các buổi tham quan , qua đó giới thiệu thêm về di tích lịch sử của địa phương như : Tại sao có tên Bảy Núi (Thất Sơn), Thoại Ngọc Hầu ... qua đó giáo dục các em hiểu thêm về nét văn hóa độc đáo của địa phương , càng cố gắng học tập hơn nữa ; tránh xa môi trường xấu bên cạnh hàng ngày .
 - Thường xuyên giáo dục các em học khá giỏi trong lớp mọi lúc , mọi nơi đều phải quan tâm giúp đỡ bạn . Khi có em bị bệnh thì các em trong nhóm đến nhà ,liên hệ phụ huynh để lấy vở chép bài hộ và giảng lại cho bạn hiểu bài .
 -Trao đổi với gia đình các em trong cuộc họp phụ huynh đầu năm tạo điều kiện để các em học tốt như : 
 + Vận động mua đầy đủ đồ dùng học tập cho các em vì có đủ dụng cụ các em sẽ phấn khởi hơn và ham học hơn . 
 + Tôi giới thiệu với gia đình về đôi bạn cùng học, cùng vui chơi . Tôi giải thích ích lợi của việc học với bạn cho các bậc phụ huynh hiểu để tạo điều kiện hỗ trợ cho các em được học tập với nhau . Nhờ đó các em học yếu đều có đôi bạn kèm cặp giúp đỡ .
 + Gia đình cần biết đến mọi thành tích học tập của con , động viên , khuyến khích con cái học tập , phải quan tâm khích lệ kịp thời , không nên trách mắng làm ảnh hưởng đến tinh thần , dẫn đến chán học .
3/- Soạn kế hoạch giảng dạy giáo dục phù hợp :
a)- Tổ chức lớp học :
 -Tôi sắp xếp em yếu ngồi cạnh em khá , giỏi và thường là xếp cho các em ở vị trí bàn nhất của các dãy bàn để tiện quan sát theo dõi việc học .
 -Cơ cấu nhân sự cho từng tổ phải được phân đều , vừa có học sinh giỏi vừa có học sinh yếu ; tránh tập trung nhiều học sinh yếu trong cùng một tổ.
 - Tôi chú ý phân công những học sinh yếu hoặc cá biệt vào các trọng trách tương đối khá quan trọng như : Lớp phó phụ trách lao động , trưởng ban văn thể của lớp, trưởng ban thi đua .... Từ đó các em cảm thấy rất vinh dự vì được thầy cô tin tưởng , thấy mình cũng giỏi , cũng có ích đối với tập thể nên ra sức học tập để đừng thua kém các bạn . 
b )- Phương pháp giúp đỡ theo từng đối tượng học sinh :
Đối với học sinh không được cha mẹ quan tâm :
 - Tôi thường xuyên kiểm tra bài trong hầu hết các môn học để kịp nhắc nhở những thiếu sót , yếu kém . Tôi chú ý hướng dẫn cách tự chăm sóc , cách tự học ở nhà. 
 - Trước giờ tan trường , tôi lưu ý phần chuẩn bị cho ngày mai . 
Đối với học sinh tiếp thu kiến thức chậm :
 -Tôi sắp xếp thêm thời gian phụ đạo ngoài giờ lên lớp . Phụ đạo ngay trong các tiết học , biết được em yếu phần kiến thức nào , tôi lại ôn nhanh phần đó , thực hiện nhiều lần để giúp em có thể nhớ lại .
 -Giảng riêng vào những lúc ra chơi . Tôi vừa trò chuyện , vừa ôn lại kiến thức đã học trong ngày cho các em .
 -Trong lúc giảng giải ở phần khó hiểu , tôi thường nhìn thẳng vào em để nói , ngụ ý động viên khuyến khích nhờ đó em tiếp thu tốt hơn . Tôi thường làm thêm đồ dùng trực quan riêng cho học sinh thiển năng giúp các em dễ hiểu .
Đối với những em cá biệt ham chơi hơn ham học :
-Tôi trao đổi nhờ gia đình phải thực sự quan tâm , khi nghe em báo là cô giáo cho nghỉ học cần theo dõi hỏi lại , hoặc khi nghe bảo “Hôm nay con không có bài học” cần kiểm tra nhắc nhở .
-Hướng dẫn em làm tốt những trọng trách giao thêm , để dần có ý thức hơn trong lao động , ham làm việc từ đó hạn chế vui chơi vô ích .
-Chọn những câu chuyện có tác hại từ những việc ham chơi không chăm chỉ học của những nhân vật trong chuyện xưa hoặc những kết quả tốt đẹp nhờ ham học để nhắc nhở , khuyên bảo các em .
-Hứa hẹn những phần thưởng (tham mưu vận động ở BGH ,ở Hội phụ huynh học sinh ) nếu các em này hoàn thành tốt các bài học như : tổ chức cho đi tham quan cùng các bạn hoặc tặng một món đồ chơi mà em thích .
Đối với những học sinh không hứng thú trong học tập :
 Các em này vào lớp thường lơ đãng ngó ra cửa , khi cô giáo gọi trả lời mới giật mình và đứng lên cứ lặng thinh chả nói được gì .
-Tôi đặc biệt không để cho các em ngồi ở nơi có thể thuận tiện nhìn ra ngoài.
-Thường xuyên gọi em phát biểu , nhắc lại bài các bạn đã làm hoặc những câu bạn vừa phát biểu . Tôi cố gắng giúp em làm xong bài ngay tại lớp .
-Khen ngợi một cách nhiệt tình khi em hoàn thành được câu trả lời dù ý chỉ gần đúng tạo thêm cho các em niềm tin vào chính mình . 
-Trong giờ học thường gọi em tham gia các trò chơi , trực tiếp cho các em tự làm thí nghiệm . Nhờ đó em đã có chuyển biến thường chú ý hơn trong tiết học để cô giáo gọi có thể thực hiện được . 
Ví dụ : Sau mỗi tiết học tôi hay cho các em chơi trò chơi như : Thi điền thơ , ghép chữ giúp làm giàu vốn ca dao nói về tình cảm con người Việt Nam ; hoặc qua trò chơi tìm tiếng điền vào chỗ trống để mở rộng thêm vốn từ . Tiết học luôn gây hứng thú nên đa số các em nhớ được nhiều câu ca dao , tục ngữ , thành ngữ ; thông qua các trò chơi vui ,làm giảm bớt căng thẳng giúp các em thích học hơn trước .
c)-Phương pháp giúp đỡ theo từng môn học :
 Tùy theo mức độ học yếu và đặc thù ở từng môn ,tôi có biện pháp giúp đỡ phù hợp . Vì có em yếu toán , có em lại yếu chính tả , có em phát biểu tốt nhưng viết tập làm văn lại lung tung , người đọc không thể nào hiểu được . 
*Đối với học sinh đọc chậm , thường ê a hoặc kéo dài : 
 - Lúc đầu , tôi chỉ yêu cầu em đọc được một câu ngắn trọn vẹn , đến tiết tập đọc nào cũng gọi em đọc . Dần dần mới tiến tới luyện câu dài .
 - Chú ý phần ngắt nghỉ câu , yêu cầu em đọc liền mạch câu đến dấu phẩy hoặc dấu chấm mới được nghỉ hơi .
 - Tôi thường yêu cầu em trả lời những câu hỏi dễ để luyện đọc thêm .
 - Ở giờ chơi , những lúc nghỉ tiết hoặc trong các tiết sinh hoạt chủ nhiệm , tôi yêu cầu các em đọc kể về truyện tranh mượn ở thư viện , khen ngợi em kể hay để động viên em tập đọc nhiều hơn .
* Đối với các em thường viết sai chính tả : 
 - Hướng dẫn các em nắm vững quy tắc , các mẹo viết chính tả .
Ví dụ : Qui tắc viết phụ âm đầu “cờ” được ghi bằng các chữ c , k , q ; quy tắc viết ng/ngh ; s/x ... . Yêu cầu các em làm các bài tập điền vào chỗ trống các âm đầu : ...ì ....ọ , ...èm....ặp, ....uanh....o ...v.v. Thông qua bài tập này giúp các em nhớ được qui luật viết chính tả và dần dần viết ít sai hơn . 
 Để các em viết đúng các từ láy có thanh hỏi hoặc ngã như : giòn giã,gióng giả ... . Tôi gợi ý một câu ghi nhớ rất vui và khó quên , như : 
 Em huyền mang nặng ngã đau
 Anh không sắc thuốc hỏi đau chỗ nào . 
 	Từ đó các em biết viết dấu ngã khi tiếng đi cạnh có dấu huyền hoặc dấu nặng ; viết dấu hỏi khi đi với thanh ngang ( không dấu ) hoặc dấu sắc .
-Hướng dẫn em phân tích âm đầu , vần ; so sánh để nhận ra những tiếng có phát âm gần giống nhau thường hay lẫn lộn .
-Trong lúc đọc chính tả cho học sinh viết , tôi thường đến cạnh các em yếu để giúp đỡ kịp thời và phát hiện những sai sót mà em thường mắc phải ...
-Yêu cầu các em viết lại nhiều lần từ sai ở cuối bài chính tả . Bài chính tả nào em viết tốt thì tuyên dương ngay trước lớp .
Kết quả : Đến giữa năm học , các em đã viết tương đối tốt , lớp tôi không còn có học sinh viết chính tả dưới điểm 5 nữa .
* Đối với học sinh yếu Tập làm văn :
 	Thường những em này không chú ý đến ngữ pháp , muốn viết thì viết , nhớ gì viết nấy, chẳng cần chấm hoặc phẩy gì cả . Tôi quan tâm dạy về các khái niệm về câu , luyện cho các em biết cách phân tích các thành phần của câu, phải viết hoa chữ cái đầu câu và kết thúc bằng dấu chấm câu . 
Ví dụ : Hôm nay , em đến trường sớm .
 TN CN VN 
 -Kết hợp luyện viết những câu văn ngắn theo từng chủ đề ; yêu cầu tập viết nhiều trong các buổi học phụ đạo .
Ví dụ : Hãy viết 3 câu ngắn tả hình dáng người bạn của em . Bước đầu có thể viết : Lan là bạn thân của em . Lan bằng tuổi em . Dáng người nhỏ nhắn .
 - Những em này thường rất nghèo từ , khi viết một bài tập làm văn chỉ sử dụng các từ nôm na ( từ địa phương ) như : mầng cá ; trời sáng gực . Để khắc phục , tôi lưu ý phần mở rộng từ trong các tiết từ ngữ ; cho các em luyện thêm các bài tìm từ thay thế. 
Ví dụ : Thay từ “ mầng cá” = làm cá ; từ “ đánh lộn” = đánh nhau 
Kết quả : Sau một thời gian luyện tập , những học sinh đầu năm không thể nào viết được bài tập làm văn hoàn chỉnh , có viết thì chỉ vài hàng là hết ý . Sang đầu học kỳ II, hầu hết các em đã viết được tương đối suông sẻ, có ý rõ ràng .
* Đối với các em học toán chậm : 
 -Tổ chức cho các em ôn lại các bảng nhân ; hướng dẫn lại cách nhẩm tròn chục , tròn trăm ; cấu tạo số ... 
 Ví dụ : Để giúp các em tính nhanh hơn , không phải đếm tay nữa . Tôi yêu cầu em tự nhẩm : 9 thêm mấy thành 10 , 8 + ? = 10 .... Sau đó nhẩm tiếp : 10 + 7 = ? , 10 + 3 = ? ...
 + Mỗi ngày yêu cầu em học thuộc một bảng nhân và thường xuyên kiểm tra , gợi ý cách nhẩm bảng nhân khi quên . 
Ví dụ : 9 x 2 = 18 , vậy 9 x 3 = ? ( có thể lấy 18 + 9 = 27 ) 
 + Đối với phép chia là loại tính khó thực hiện nhất trong bốn phép tính , tôi phải hướng dẫn dựa trên phép chia cho số có 1 chữ số .
Ví dụ : 175 : 5 = ? Tôi đưa ra câu hỏi nhỏ nhằm gợi ý : “ để chia cho 5 ở số bị chia em chọn những chữ số nào để chia (17)” . “Tại sao lại chọn số 17 mà không chọn 1” ( vì 1 < 5 nên phải chọn thêm 1 chữ số nữa , thành số có 2 chữ số để chia cho 5 ).
 + 1375 : 25 = ? Tách 137 : 25 được mấy lần ? Tôi gợi ý có thể tìm thương của 13 : 2 ( Học sinh tìm được thương là 5 dễ dàng hơn ) .
Kết quả : Qua phương pháp vừa truyền đạt kiến thức mới vừa ôn kiến thức cũ , cộng thêm các mẹo tính như thế , dần dần các em đã làm tính khá hơn , nhanh hơn và chính xác hơn .
d ) Phương pháp phát huy tính chủ động , sáng tạo :
 Các em học sinh học yếu thường rất thụ động , vào lớp cứ ngồi im không phát biểu . Khi tổ chức học nhóm thì mặc các bạn nói gì thì nói còn mình chỉ nghe và cũng không nêu ý kiến là bạn đúng hay sai .
* Sử dụng phương pháp hoạt động mang tính chất thực tiễn : 
 Phương pháp được tôi chú trọng nhất là luyện tập giúp các em năng động hơn qua thực hành , luyện tập lại nhiều lần giúp khắc sâu kiến thức cho các em . Tôi thường xuyên gọi các em lên bảng thực hiện nhiều bài tập đơn giản . 
 Ngoài ra tôi thường làm thêm đồ dùng dạy học phục vụ cho các tiết học như : Lịch sử , địa lý , sức khỏe . toán . khoa học... mà thư viên không có . Đặc biệt các em yếu đều được thực hành thực tế trên đồ dùng dạy học. 
Ví dụ : Cho mỗi em tự dùng một chiếc vòng tròn làm bằng tre , em nào cũng phải chuẩn bị sẵn để tự thực hiện ( một số em cá biệt , tôi phải chuẩn bị trù bị để giúp đỡ ). Sau đó tháo ra thành một que dài , hướng dẫn các em đo để tìm chu vi hình tròn , cuối cùng tìm ra quy tắc nên dù học yếu các em cũng nhớ được bài .
* Sử dụng phương pháp động não :
 Tôi cho các em thực hành nhiều những bài tập từ dễ rồi thay đổi hình thức một tí để các em tập suy nghĩ , tránh thụ động chỉ làm theo mẫu .
Ví dụ : Bài tập tìm X : X x 3 = 18 học sinh giải được X=6 
 Tôi thay đổi yêu cầu các em điền số vào ô trống : 
?
 x 3 = 18 
 Ban đầu các em còn lúng túng nhưng sau khi các em xác định được đúng thành phần trong phép tính thì đa số các em đã tìm được số cần tìm điền vào ô trống . Với cách làm này các em không còn lúng túng khi gặp bài có dạng yêu cầu phải động não như thế .
 * Sử dụng phương pháp thảo luận nhóm :
 Để tránh trường hợp học sinh yếu không tham gia thảo luận , tôi tổ chức thi đua sau khi thảo luận mỗi thành viên của nhóm phải cùng tham gia nêu ý kiến .
Ví dụ : Ở môn khoa học , khi dạy bài “Sự sinh sản của ruồi” , tôi cho từng nhóm thảo luận về sơ đồ vòng đời của ruồi . Mỗi em phải tham gia đóng góp với bạn , sau đó thi giữa các nhóm . Em thứ nhất đính trên sơ đồ giai đoạn 1 , em thứ hai đính giai đoạn 2 và cứ thế tiếp tục .
Kết quả : Các em yếu đều phải tham gia , lúc đầu có sự giúp đỡ của các bạn . Sau đó quen dần , em tự mình phát hiện kiến thức . Đa số học sinh yếu đều tiến bộ rõ sau học kỳ I .. 
4 / Kế hoạch phụ đạo ngoài giờ : 
 Lên thời khóa biểu giúp các em học tập ở nhà theo từng nhóm gần nhà nhau. Nhóm trưởng hoặc tổ trưởng được giao phụ trách theo dõi và báo cáo hàng tuần với giáo viên chủ nhiệm tình hình học nhóm , nếu có gì khó khăn tôi kịp thời giúp đỡ ngay.
 Thứ bảy cuối tuần tôi thường phụ đạo học sinh yếu , giảng lại thật chậm những kiến thức cơ bản mà các em còn chưa hiểu kỹ . Sau đó cho các em thực hiện lại các bài từ dễ đến khó 
 Kiểm tra tất cả bài làm lại ở nhà của các học sinh học yếu , những bài chính tả sai nhiều cần viết lại cả bài . Sau đó tôi xem xét chấm điểm động viên sự chăm chỉ và tiến bộ của từng em . 
 Theo dõi phần tự học tập trong 15 phút đầu giờ hoặc vào cuối buổi để gợi ý các em biết cách ôn tập và vận dụng những kiến thức đã học . 
 Vào giờ ra chơi tôi giữ lại đồ dùng đã dạy xong cho các em quan sát trực tiếp đồ dùng giúp các em ghi nhớ thêm hay có gì chưa chưa hiểu tôi sẵn sàng giảng lại với cách làm này tôi đã tạo được mối quan hệ gần gũi giữa thầy và trò , giữa trò và trò thành một khối vững chắc . Từ đó các em tự tạo cho bản thân mình niềm tin tự học và ham học hỏi những điều chưa biết . 
III/ . KIỂM NGHIỆM :
 Trong những năm học trước đây , vào đầu năm học khi khảo sát chất lượng đầu năm , tất cả giáo viên trong khối đều kêu ca về tình hình học yếu của học sinh lớp cuối cấp . Tổ chuyên môn đã họp bàn tìm biện pháp để khắc phục , qua thực tế giảng dạy mọi người đã trao đổi thống nhất , đồng thời học hỏi các đồng nghiệp ở các khối lớp khác trong trường , gợi ý cho tôi phát hiện những cách tốt nhất để giúp đỡ học sinh học yếu ở lớp 5 cuối cấp . Qua ba năm thực hiện kết quả đạt được rất khả quan.
* Kết quả cụ thể như sau :
Năm học
Tổng số HS
Học sinh yếu
Học sinh giỏi
Học sinh
TN cuối cấp
2000-2001
34
5
7
32
2001-2002
32
4
8
31
2002-2003
33
1
9
33
2003-2004
36
0
12
36
2004-2005
28
0
16
Chưa thi
* Với kết quả không còn học sinh yếu trong 2 năm qua , trong quá trì

Tài liệu đính kèm:

  • docsang kien kinh nghiem(3).doc