Sáng kiến kinh nghiệm Một số kinh nghiệm trong công tác hướng dẫn trẻ mầm non kể chuyện sáng tạo

Đối với trẻ mầm non, trẻ rất nhạy cảm với nghệ thuật ngôn từ. Âm điệu, hình tượng của các bài hát ru, đồng dao, ca dao, dân ca sớm đi vào tâm hồn tuổi thơ. Những câu chuyện cổ tích, thần thoại đặc biệt hấp dẫn trẻ. Chính vì vậy cho trẻ tiếp xúc với văn học và đặc biệt là hoạt động dạy trẻ kể chuyện sáng tạo là con đường phát triển ngôn ngữ cho trẻ tốt nhất, hiệu quả nhất.

Thông qua việc trẻ kể chuyện sáng tạo giúp trẻ phát triển năng lực tư duy, óc tưởng tượng sáng tạo, biết yêu quý cái đẹp, hướng tới cái đẹp. Khi trẻ kể chuyện, ngôn ngữ của trẻ phát triển, trẻ phát âm rõ ràng mạch lạc, vốn từ phong phú. Trẻ biết trình bày ý kiến, suy nghĩ, kể về một sự vật hay sự kiện nào đó bằng chính ngôn ngữ của trẻ. Đó là lý do tôi chọn đề tài: “Một số kinh nghiệm trong công tác hướng dẫn trẻ kể chuyện sáng tạo”

 

doc 26 trang Người đăng hoanguyen99 Lượt xem 603Lượt tải 0 Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số kinh nghiệm trong công tác hướng dẫn trẻ mầm non kể chuyện sáng tạo", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ẻ kẻ chuyện sáng tạo” đạt kết quả cao. 
2. Thực trạng việc tổ chức thực hiện
2.1. Tình hình khảo sát điều tra thực trạng:
* Khảo sát chất lượng trẻ đầu năm cho thấy kết quả như sau:
TT
Tổng số trẻ khảo sát
Trẻ phát âm rõ ràng mạch lạc
Trẻ biết kể chuyện
Trẻ biết kể chuyện sáng tạo
1
37
Số trẻ đạt
Tỉ lệ
Số trẻ đạt
Tỉ lệ
Số trẻ đạt
Tỉ lệ
25
67%
10
27%
5
13%
Qua khảo sát chất lượng đầu năm cho thấy khả năng phát triển ngôn ngữ của trẻ còn thấp, trẻ nói chưa rõ ràng, số trẻ biết kể chuyện đọc thơ còn hạn chế, đặc biệt là số trẻ biết kể chuyện sáng tạo còn chiếm tỉ lệ quá thấp.
Khi nắm bắt được tâm lý của trẻ, tôi tiến hành nghiên cứu tài liệu tự tìm tòi cho mình nhiều giải pháp khác nhau để đưa chất lượng giảng dạy tốt hơn.
 2.2. Thuận lợi:	
 Được sự quan tâm chỉ đạo sát sao của phòng GD - ĐT huyện nhà, cấp uỷ Đảng, chính quyền địa phương cùng với ban giám hiệu nhà trường năng động, sáng tạo có tinh thần trách nhiệm cao, có đội ngũ giáo viên nhiệt tình năng nổ, yêu mến trẻ, có tinh thần đoàn kết và giúp đỡ nhau trong quá trình nghiên cứu.
 Phần đa các bậc phụ huynh tạo điều kiện cho trẻ đến trường đúng độ tuổi.
Cơ sở vật chất nhà trường ngày càng đầy đủ hơn nên chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ ngày càng được nâng lên và nhận được nhiều sự quan tâm hơn của các cấp, các ngành và của các bậc phụ huynh.
Trường có đội ngũ giáo viên có trình độ chuyên môn đạt chuẩn và trên chuẩn, yêu nghề, mến trẻ, có nhiều giáo viên tham gia giáo viên giỏi các cấp.
Nhà trường mua sắm trang thiết bị, đồ dùng dạy học tối thiểu đầy đủ nên thuận lợi cho việc dạy va học cũng như thuận lợi cho quá trình nghiên cứu đề tài.
2.2 Mặt hạn chế và nguyên nhân:
 Trường chúng tôi nằm ở khu vực nông thôn, ®a sè lµ con em gia đình n«ng nghiÖp nªn đời sống của nhân dân cũng gặp nhiều khó khăn, một số gia đình chưa thực sự quan tâm đến việc học hành của con cái vì thế việc phối hợp giữa giáo viên và phụ huynh có phần hạn chế nên ảnh hưởng đến chất lượng dạy và học.
 Mặc dù nhà trường đã mua sắm trang thiết bị đồ dùng đồ chơi nhưng vẫn chưa đầy đủ số lượng theo quy định, có những loại đồ dùng mới được đủ về danh mục nhưng chưa đủ về số lượng. 
 Một số trẻ đi học không học qua độ tuổi 3 tuổi khả năng hoà nhập với các bạn còn rụt rè, nhút nhát, chưa thuộc các bài thơ, câu chuyện và các hoạt động cũng chưa được mạnh dạn, sử dụng tiếng địa phương nhiều, nói đớt, nói ngọng nói lặp, nói không đủ câu, nhiều câu nói không có nghĩa, nên rất khó khăn trong quá trình dạy trẻ. Vì thế dẫn đến các tiết học trầm, chưa sôi nổi, rời rạc trẻ chưa hoạt bát, tư duy sáng tạo của trẻ cũng yếu, phát âm chưa hết câu, phát âm cũng lặp.
Khi hướng dẫn trẻ kể chuyện sáng tạo khả năng thể hiện điệu bộ cử chỉ vào các vai của các nhân vật trong câu chuyện còn hạn chế. Trẻ chưa nhập vai khi thể hiện. 
II/ Những biện pháp thực hiện:
1. Tạo môi trường hoạt động cho trẻ kể chuyện sáng tạo.
Tạo môi trường cho trẻ hoạt động là rất cần thiết trong chương trình đổi mới
Hiện nay, nếu cô giáo tạo được môi trường cho trẻ hoạt động tốt thì sẽ kích thích trẻ phát triển ngôn ngữ, tham gia vào các hoạt động và kết quả đạt được rất cao. Vì thế ngay từ đầu năm học tôi đã đi sâu vào tạo môi trường bằng cách đưa hình ảnh nhân vật của các câu chuyện nổi bật vào góc văn học và một số góc trong và ngoài lớp học thể hiện trên các mảng tường. Vẽ và sưu tầm một số bộ truyện tranh ngoài chương trình để đưa vào giảng dạy, vận động phụ huynh đóng góp truyện tranh đưa vào góc văn học cho trẻ hoạt động thường ngày. Những câu chuyện được thể hiện trên các mảng tường trong không gian to đã giúp trẻ dễ tri giác, trẻ được thảo luận, bàn bạc về câu chuyện đó. Từ đó trẻ biết vận dụng những kiến thức đó vào kể chuyện sáng tạo một cách dễ dàng. Ngoài việc tạo những bức tranh trên mảng tường, những tập truyện tranh chữ to tôi còn đi sâu làm một số đồ dung trực quan cho trẻ hoạt động như: một số con rối dẹt có bánh xe, có cử động tay chân và tận dụng những truyện tranh cũ, những sản phẩm vẽ của trẻ, cắt dán bồi bìa cứng cho trẻ ghép tranh kể chuyện sáng tạo hoặc cắt dời các con vật cho trẻ tự chọn các con vật đó để kể chuyện sáng tạo theo ý tưởng của mình.
Điều đặc biệt hơn nữa tôi đầu tư suy nghĩ và làm ra các loại rối tay cho trẻ hoạt động. Thực tế tôi nhận thấy đồ dung làm bằng rối tay hầu như ở các lớp không có cho trẻ hoạt động, qua nghiên cứu tìm tòi tôi đã vận dụng làm từ các quả bong, chổi rơm, đĩa nhựa đồ chơi để làm mặt con rối sau đó dùng vải hoặc len móc làm váy, thân tay để khi trẻ sử dụng không bị thô và cứng. Các khuôn mặt có thể thay đổi tuỳ theo nội dung, nhân vật của câu chuyện trẻ kể.
Qua cách nghĩ và làm như vậy tôi đã tạo ra một góc văn học với đầy đủ chủng loại về đồ dung trực quan đa dạng phong phú, đã giúp trẻ hứng thú tham gia vào hoạt động và nhiều ý tưởng hay khi trẻ kể chuyện sáng tạo.
Bên cạnh đó trong giờ hoạt động ngoài trời tôi còn tận dụng những bức tranh tường ở trong trường bằng cách gợi mở cho trẻ cùng nhau kể chuyện về những bức tranh đó hoặc có các con vật trong sân trường tôi cũng gợi mở cho trẻ thi nhau kể chuyện về các con vật đó hình thức này đã giúp trẻ em có nhiều ý tưởng sáng tạo hay và có ý thức thi đua để đạt kết quả tốt.
Tạo môi trường cho trẻ kể chuyện sáng tạo là một việc làm vô cùng quan trọng bởi nó là chỗ dựa, là cơ sở vững chắc cho trẻ kể chuyện sáng tạo. Đòi hỏi cô giáo phải biết tạo cảm xúc cho trẻ bằng các con vật ngộ nghĩnh, đáng yêu, đồng thời cũng phải biết hướng lái, gợi mở cho trẻ có cảm xúc tích cực khi tham gia hoạt động kể chuyện sáng tạo. Qua nội dung các bức tranh, các nhân vật, các con rối trẻ được xem và nói lên nhận xét của mình về các đồ dung đó. Như vậy ngôn ngữ cuả trẻ được phát triển một cách phong phú và đa dạng.
2. Tìm hiểu đặc điểm tâm sinh lý trẻ:
Vào đầu năm học tôi thường xuyên gần gũi trò chuyện, gợi mở nắm bắt những cá tính riêng của trẻ, động viên thu hút trẻ tham gia vào các nhóm bạn. Tôi đã phát hiện ra trẻ rất hiếu động, thích khám phá, tìm tòi, trẻ dễ nhớ chãng quên, sự chú ý có chủ định phụ thuộc vào sự hứng thú và điều kiện mới lạ, trẻ thích nghe động viên, thích nghe đọc thơ, kể chuyện, thích chơi các trò chơi, qua trò chơi trẻ tiếp thu bài một cách thoải mái, chủ động và kết quả cao, tôi đã cho trẻ chọn nhóm học và chơi để tìm hiểu những sở thích, khả năng của trẻ. Nếu trẻ có khả năng về đọc thơ, kể chuyện tốt thì tôi có kế hoạch bồi dưỡng cho trẻ để trẻ phát triển năng khiếu của mình và ngược lại trẻ phát âm chưa chuẩn, nói ngọng, nãi lắp nhiều thì tôi cã kế hoạch bồi dưỡng bố trí cho những trẻ đó tiếp xúc nhiều hơn với những bạn có năng khiếu nhằm giúp trẻ mạnh dạn, tự tin và phát triÓn toàn diện hơn về mọi mặt. Vì thế khi nắm bắt được tâm lý của trẻ, tôi tự tìm tòi cho mình nhiều giải pháp khác nhau để đưa chất lượng giảng dạy tốt hơn.
3. Nghiên cứu tài liệu:
Nhận thức rõ việc nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ là một việc làm hết sức quan trọng và cần thiết đầu tiên để nâng cao chất lượng dạy và học đặc biệt đối với giờ đọc thơ, kể chuyện đạt hiệu quả tốt thì bản thân phải chủ động, sáng tạo, tích cực từ đó tôi đã đầu tư nghiên cứu tài liệu sách báo về giáo dục, tài liệu nghiên cứu cuốn sách hướng dẫn thực hiện chương trình giáo dục mầm non cho trẻ ở các độ tuổi tuổi, sách bồi dưỡng thường xuyên, sách tuyển tập trò chơi và kể chuyện cho trẻ, các tạp chí, báo họa mi, sách bé cùng kể chuyện... hay các tập tranh thơ, truyện theo chủ đề cho trẻ ở lứa tuổi mầm non, tập tranh kể chuyện sáng tạo của bộ giáo dục và đào tạo. Các cuộc chuyên đề cụm, trường, các tiết thao giảng.... Đó là nơi tôi được học hỏi, đúc rút kinh nghiệm sau các tiết dạy dự giờ của đồng nghiệp. Đặc biệt sau những đợt học hỏi xem các tiết dạy giáo viên giỏi cấp trường, cấp huyện...... cùng với giảng dạy thực tế ở lớp học tôi đã lên kế hoạch từng chủ đề, kế hoạch tuần, ngày một cách phù hợp với tình hình thực tế của trường, lớp và đặc điểm của từng trẻ để áp dụng vào tình hình thực tế ở các chủ đề trong năm một cách phù hợp. Tôi đã áp dụng vào các cuốn sách hướng dẫn thực hiện chương trình giáo dục mầm non và kế hoạch thực hiện chương trình để rà soát đưa các bài học vào các chủ đề, chủ điểm một cách phù hợp với tình hình thực tế của lớp, trường một cách phù hợp vào trong dạy học nhằm giúp trẻ có hứng thú tham gia học tập, tạo cho trẻ không bị nhàm chán, phát triển toàn diện và yêu thích bộ môn văn học, giúp trẻ cảm nhận được cái hay cái đẹp trong cuộc sống hàng ngày. Ngoài ra tôi luôn học hỏi tìm các tài liệu liên quan đến giáo dục mầm non qua các sách báo, băng đĩa, ti vi và các thông tin đại chúng để áp dụng vào giáo dục trẻ.
Đồng thời các đồ dùng đồ chơi giúp trẻ học mà chơi, chơi mà học và còn giúp trẻ thỏa mãn nhu cầu giao tiếp. Hàng ngày trẻ được trò chuyện cùng búp bê, gấu bông, từ đó ngôn ngữ của trẻ được phát triển và kích thích sự hứng thú của trẻ giúp trẻ dễ nhớ, lâu quên và tạo không khí buổi học thoải mái, vui vẻ đạt kết quả cao nhưng với điều kiện cô giáo phải sử dụng đồ dùng đồ chơi đó sao cho đúng lúc đúng chỗ phù hợp với nội dung bài dạy, lứa tuổi trẻ. Vì thế hàng ngày hàng giờ tôi cùng các chị em trong trường, cùng phụ huynh sưu tầm các nguyên vật liệu thiên nhiên, tận dụng những nguyên vật liệu sẵn có như chai, lọ, vải vụn sau đó dựa vào nội dung câu truyện làm sa bàn, làm các nhân vật, con rối bằng xốp, củ quả, chai lọ, que, giấy bóng 
	Ví dụ: Làm rối bằng giấy lụa mềm, vỏ xốp làm đầu bọc vải gắn len làm tóc, vẽ mắt mũi miệng sau đó cắt vải cuốn quanh làm áo, váy cho nhân vật.
Làm rối ngắn tay: Lấy quả bóng làm đầu nhân vật, vẽ mắt, mũi, tai Sau đó lấy bìa cứng cuộn lại làm thân lồng vào tay.
 Làm rối dẹt: Vẽ hình nhân vật vào giấy rồi tô màu, cắt dán vào bìa cứng gắn que để kết hợp kể chuyện qua rổi dẹt gây hứng thú cho trẻ.
4. Dạy trẻ cách sử dụng nhân vật phù hợp với ngôn ngữ lời kể sáng tạo.
Bên cạnh một môi trường hoạt động với đầy đủ các loại đồ dùng trực quan đa dạng phong phú, thu hút sự hứng thú tham gia kể chuyện sáng tạo của trẻ thì chúng ta còn phải dạy trẻ cách sử dụng nhân vật phù hợp với ngôn ngữ lời kể sáng tạo.
Khi dạy trẻ sáng tạo tôi đã chuẩn bị cho trẻ những tập truyện tranh sưu tầm bằng cách đọc kể cho trẻ nghe ở các giờ đón, giờ trả trẻ và giờ chơi hàng ngày. Đây là hình thức cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học, là cơ sở cho trẻ có kiến thức vững vàng khi thực hiện kể chuyện sáng tạo. Qua cách làm quen như vậy trẻ biết đánh giá, nhận xét về đặc điểm tính cách của các nhân vật thông qua ngôn ngữ nói của mình.
Ví dụ: Gà cón xinh đẹp đáng yêu, sói già gian ác, bà tiên ông bụt thì tốt bụng còn phù thuỷ thì độc ác.
Bên cạnh đó tôi còn định hướng cho trẻ quan sát các tranh chuyện , cho trẻ xem qua đĩa hình các câu chuyện. Đồng thời kết hợp tri giác với đàm thoại giữa cô và trẻ, giúp trẻ nhận xét đánh giá nội dung truyện một cách chính xác và nói lên ý tưởng của mình qua sự nhận thức.
Tôi dạy trẻ kể chuyện theo từng nhóm, theo thời gian thực hiện một tuần hoặc hai tuần, kết hợp lồng ghép các môn học khác, các trò chơi để củng cố và khắc sâu kiến thức, mở rộng vốn hiểu biết về thế giới xung quanhcho trẻ.
Sau đây là một số cách dạy trẻ sử dụng đồ dùng trực quan.
- Dạy trẻ sử dụng rối tay: dạy trẻ sử dụng từng con một, kết hợp với lời nói, ngôn ngữ biểu cảm cùng với cách diễn rối qua cử động các con rối đi lại.
- Dạy trẻ ghép tranh kể chuyện: chọn những tranh mà trẻ thích ghép thành một dải câu chuyện sau đó kể từng tranh kết hợp với lời nói chỉ dẫn thông qua các nhân vật trong tranh.
- Dạy trẻ ghép các nhân vật kể chuyện: chọn những nhân vật mà trẻ thích, sau đó ghép các nhân vật với nhau tạo thành một câu chuyện theo ý tưởng của trẻ.
- Dạy trẻ kể chuyện bằng sa bàn: chọn những nhân vật mà trẻ thích kết hợp di chuyển các nhân vật đó trên sa bàn. Nói đến đâu đưa nhân vật ra đến đó, lời kể đi theo nhân vật sử dụng.
Qua cách dạy trẻ tôi đã tiến hành tổ chức một giờ hoạt động có chủ đích kể chuyện sáng tạo, chủ điểm thế giới động vật như sau:
 Bước 1: Hát bài “Gà trống mèo con và cún con”. Hỏi trẻ trong bài hát có những con vật gì.
Bước 2: Nghe cô kể mẫu chuyện sáng tạo của cô, cô sử dụng rối kể 1 lần. Đàm thoại với trẻ về câu chuyện của cô (tên nhân vật, đặc điểm nhân vật, đặt tên cho câu chuyện).
Bước 3: Trẻ đi chọn đồ dung trực quan mà trẻ yêu thích. Cô gợi mở ý tưởng cho trẻ bằng cách mượn một con vật mà trẻ đã chọn và kể ngắn gọn vài câu để trẻ biết cách kể chuyện sáng tạo.
Bước 4: Trẻ kể chuyện sáng tạo theo nhóm, cá nhân. Cô cho trẻ đánh giá và nhận xét câu chuyện của bạn kể. Theo dõi cách sử dụng đồ dung trực quan của trẻ để cô góp ý nhận xét.
Qua cách làm này, bước đầu tôi đã thành công trong việc thực hiện dạy trẻ kể chuyện sáng tạo, giúp trẻ linh hoạt sử dụng đồ dung trực quan kết hợp với ngôn ngữ nói rõ ràng mạch lạc, có kỹ năng tổng hợp về “mắt nhìn, miệng nói, tai nghe, tay sử dụng”.
Sau đây là một số câu chuyện của trẻ khi thực hiện kể chuyện sáng tạo.
Câu chuyện “Con lợn nhựa của tôi” tác giả cháu Hoàng Tuấn với đồ dùng là một con lợn nhựa được cháu thể hiện như sau:
+ Chủ nhật tớ được về quê thăm bà. Ở quê bà tớ nuôi rất nhiều lợn, các con lợn rất to và ăn rất nhiều rau với cám. Thấy tớ thích con lợn đó, bà tớ liền mua cho tơ một con lợn, nhưng đó là con lợn nhựa. Con lợn nhựa của tớ nó chẳng ăn được gì mà nó chỉ giúp tớ cất tiền. Đến tết ai mừng tuổi là tớ cho vào con lợn nhựa này để gửi mẹ mua quần áo. Tớ rất yêu quý co lợ nhựa này của tớ.
- Câu chuyện “Bác Voi tốt bụng” của cháu Thảo My, Khánh Như và Yến Nhi. Đồ dung là con gà, vịt, voi từ sản phẩm vẽ của trẻ bồi bìa cứng và làm rối tay, câu chuyện được các bé thể hiện như sau:
+ Bạn vịt bầu ơi có đi chơi với tớ và gà trống không.
+ Ừ hôm nay trời đẹp chúng mình cùng đi chơi nhé.
+ Chúng mình đến vườn hoa kia chơi nhé! ở đó có nhiều trò chơi thích lắm.
+ Hai bạn gà, vịt mải chơi đến khi trời tối không biết đường về nữa, cả hai cùng khóc hu hu
+ Lúc đó bác voi xuất hiện và nói đừng khóc nữa lên đây bác đưa về.
+ Hai bạn cùng trèo lên lưng bác voi đưa về, từ đó hai bạn không dám đi chơi xa.
Ở câu chuyện này ba cháu sử dụng rối rất tốt. Các cháu đã biết kết hợp với nhau sử dụng các nhân vật phù hợp ăn khớp với lời kể. Ngôn ngữ của các cháu được thể hiện một cách rất tự nhiên và phong phú.
Trong quá trình nghiên cứu và tiến hành kể chuyện sáng tạo đến nay ở lớp tôi đa số trẻ đã kể chuyện sáng tạo theo ý tưởng của mình mà kgông cần sự gợi ý của cô. Từ những việc làm đó không những trẻ sử dụng thành thạo đồ dung trực quan về các con vật mà còn biết vận dụng sử dụng đồ dung trực quan ở các chủ đề khác.
Thông qua các câu truyện sáng tạo của trẻ, trẻ sử dụng các ngữ điệu,ngắt nghỉ để truyền đạt thái độ, tình cảm của mình đối với tác phẩm. Trẻ bắt chước giọng kể diễn cảm của cô,trẻ có thể hiểu được một từ dung với đồ vật này lại có thể vào các đồ vật khác nữa. Từ đó ngôn ngữ của trẻ phát triển mạnh mẽ, vốn từ được làm giàu them và qua đó trẻ cảm nhận được sự phong phú của ngôn ngữ mẹ đẻ.
5. Lồng ghép các môn học khác khi dạy trẻ kể chuyện sáng tạo.
Với lời kể diễn cảm, hấp dẫn đã làm rung động người nghe, nhưng biết tích hợp các môn học khác thì còn hay hơn vì nó làm thay đổi không khí, làm thay đổi trạng thái khi kể chuyện. Bằng những lời ca, lời đối thoại,những câu đố, những bài đồng dao, ca dao hay một số trò chơi xen lẫn.
Ví dụ: Bài thơ “Thỏ bông bị ốm” “Ong và bướm”, “Cá vàng bơi”.hoặc cho trẻ đọc thuộc các câu đố về con chó, mèo, lợn, cá, gàhay một số bài đồng dao, ca dao “Vè chim”, “Đi cầu đi quán”.
Âm nhạc là môn bổ trợ cho rẻ làm quen với tác phẩm văn học, dễ gây ấn tượngcho người xem, vì thế tôi cho trẻ hát thuộc các bài hát: “Thương con mèo”, “Một con vịt”, “đố biết con gì”, “Trời nắng trời mưa” giúp trẻ khi kể chuyện về con vật nào trẻ có thể hát về các con vật đó phù hợp với nội dung câu chuyện.
Trò chơi là hình thức chuyển tiếp giữa các lần kể hay thay cho phần củng cố câu chuyện mà các tiết dạy thường áp dụng. Tôi cho trẻ chơi một số trò chơi ở dạng động như trò chơi: Mèo và chim sẻ, gà gáy vịt kêu, trời nắng trời mưa, cáo và thỏ
Việc tích hợp các môn học khác, các trò chơi vào cho trẻ kể chuyện sáng tạo là việc cung cấp thêm một số kiến thức bổ trợ cho câu chuyện sinh động hơn. Ở lứa tuổi này tâm lý của trẻ thường mau nhớ chóng quên. Vì vậy vào giờ đón trả trẻ tôi đưa trẻ vào góc văn học để hướng dẫn trẻ kiến thức mới và củng cố kiến thức cũ. Đây là hình thức cho trẻ trải nghiệm những gì mình có sẵn và học tập ở cô và bạn, trẻ cảm thấy thoải mái và tự tin hơn.
Việc tích hợp các môn học khác cô giáo phải linh hoạt, lựa chọn nội dung sao cho phù hợp với nội dung câu chuyện, giúp trẻ tham gia vào hoạt động một cách tích cực nhất và ngôn ngữ của trẻ được phát triển mạnh mẽ nhất.
6. Dạy trẻ kể chuyện ở mọi lúc mọi nơi: 
Giáo dục trẻ ở mọi lúc mọi nơi là biện pháp không thể thiếu được đối với các môn học đặt biệt là môn văn học nªn t«i ®· tÝch hîp vµo mäi ho¹t ®éng trªn líp còng nh c¸c ho¹t ®éng d¹o ch¬i. Qua đó trẻ có hứng thú hơn khi tham gia vào c¸c hoạt động vµ ®Ó còng cè thªm bµi häc. 
Vào buổi sáng giờ đón trẻ tôi cho trẻ được chơi theo ý thích trong đó góc sách truyện tôi luôn khuyến khích trẻ tham gia. Trẻ sẽ được “đọc”, xem các bài thơ, câu chuyện mà trẻ thích, được chơi với các con rối trẻ yêu, được nghe các câu chuyện bài thơ mà trẻ cảm thấy hứng thúKhi trẻ được tiếp xúc nhiều lần trẻ sẽ dần dần cảm nhận được những cái hay cái đẹp trong các tác phẩm đó và sẽ càng ngày càng thích thú hơn với các hoạt động văn học, thông qua các bức tranh được xem trẻ sáng tạo ra câu chuyện có nội dung hay, phù hợp.
Thông qua các hoạt động ngoài trời, các môn học khác, hoạt động chiều để cho trẻ làm quen với các tác phẩm văn học, rồi ôn luyện sau những bài thơ, câu chuyện trẻ đã được học trên tiết học, giúp trẻ luyện phát âm, phát triển lời nói.
Ví dụ: Thông qua hoạt động ngoài trời cô cho trẻ làm quen với các nhân vật trong chuyện qua việc cho trẻ xem tranh vẽ về nội dung câu chuyện “Bác gấu đen và hai chú thỏ” cho trẻ nhìn tranh - cô đặt câu hỏi - trong tranh có ai?
- Khi quan sát con vật, con bò, trâu, lợn .. có thể đọc bài thơ “đàn bò” “Gọi nghé”.
- Thông qua hoạt động vui chơi giúp trẻ thể hiện tình cảm yêu thương, giao tiếp với bạn bè.
Ví dụ: Trẻ chơi với bạn nhường đồ chơi cho bạn trong khi xếp hình
+ Trẻ chơi trò chơi phân vai theo chủ đề: trẻ chơi bế em, cho em ăn, ngủ, đã tạo cho trẻ thể hiện tình cảm yêu thương với em bé, với bố mẹ.
- Thông qua hoạt động chiều, mỗi tuần dành riêng một đến hai tuổi cho trẻ tập kể chuyện.
Ví dụ: Hôm nay, lớp mình có rất nhiều bạn đến thăm nào là gà, bò, lợn, vịt... các con hãy kể chuyện nói về các con vật này nhé.
Qua hoạt động dạo chơi này cô giáo còn có thể cung cấp cho trẻ nhiều từ ngữ về cảnh vật cây cối xung quanh.
Ví dụ: Khi cho trẻ dạo chơi sân trường tôi cho trẻ quan sát khung cảnh sân trường, trò chuyện về một số cây cối trong trường, hỏi “Đây là cây gì? Cây mưng có đặc điểm gì? Các con có nhận xét gì về lá của cây?...”
* Trò chơi đóng kịch:	
Là hoạt động giúp trẻ phát triển trí nhớ và giáo dục trẻ tinh thần tập thể. Qua hoạt động đóng kịch trẻ truyền đạt lại nội dung câu truyện, làm sống lại tâm trạng, hành động ngôn ngữ hội thoại của các nhân vật trong truyện, đồng thời trẻ biết thể hiện tình cảm và đánh giá các nhân vật trong truyện. Khi đóng kịch trẻ dễ dàng nắm được nội dung, ý nghĩa của tác phẩm, nắm được tính liên tục của câu truyện, điều này góp phần đẩy mạnh sự phát triển tư duy, cảm thụ tác phẩm một cách sâu sắc ở trẻ. Để đạt được điều đó thì trước khi cho trẻ đóng kịch giáo viên phải cho trẻ ôn lại nội dung câu truyện và đàm thoại với trẻ về nội dung. Giúp trẻ hiểu sâu hơn về nội dung truyện và lời thoại của các nhân vật trong truyện. Để từ đó trẻ biết thể hiện những sắc thái khác nhau về ngữ điệu, tính cách tâm trạng của các nhân vật trong truyện. Nhằm giúp trẻ phân biệt được giọng điệu lời nói của các nhân vật. Qua đó trẻ khắc hoạ được tính cách nhân vật. Để trẻ nhớ được ngôn ngữ, lời thoại của các nhân vật trong truyện để đóng kịch thì trước hết cho trẻ nhắc lại lời thoại của nhân vật sau đó cho trẻ đóng vai theo tổ hoặc nhóm. 
 Ví dụ: Trong truyện “Dê con nhanh trí” cho tổ 1 làm dê trắng, tổ 2 làm dê đen, tổ 3 làm cho sói để trẻ tự thể hiện hành động, điệu bộ của nhân vật cho quen và thành thạo. Sau đó phân vai cho từng trẻ theo vai của các nhân vật trong truyện và cho trẻ nhắc lại lời thoại của nhân vật trong truyện mà trẻ sẽ đóng. Lúc này cô giáo là người dẫn truyện và trẻ tự diễn theo nội dung câu truyện. Khi trẻ diễn xong lên cho trẻ tự nhận xét về vai diễn của mình, của bạn, từ đó trẻ xác định được thái độ của trẻ đối với nhân vật trong truyện là yêu hay ghét. 
Trò chơi đóng kịch thực sự giúp trẻ cảm nhận tác phẩm văn học một cách sâu sắc và để đạt được điều đó thì việc trang trí sân khấu và hoá trang cho trẻ rất quan trong, với câu truyện “3 chú Lợn nhỏ” tôi làm sân khấu có màn che, rồi trang trí cảnh phù hợp với câu truyện.
Bên cạnh việc làm mô hình sân khấu thì việc hoá trang cho trẻ đóng kịch cũng rất cần thiết. Với nhân vật “3 chú Lợn” tôi cho trẻ mặc mặt nạ hình con lợn, bao tay và giầy hình chân con lợn và áo quần màu sắc khác nhau phù hợp với tính cách của từng nhân vật.
Việc hoá trang và bố trí sân khấu phù hợp, trang phục đẹp sẽ giúp trẻ tự tin khi nhập vai tạo cho trẻ hứng thú hơn với từng vở diễn.
Trong hoạt động chung trẻ có thể chưa cảm nhận hết được các giá trị về mặt ngôn ngữ, tình cảm của các tác phẩm thì đến giờ ho¹t động góc cô giáo cho trẻ tham gia vào góc chơi “Bé yêu văn học”. Tại góc chơi này cô cho trẻ được xem, đọc hay lằng nghe các câu chuyện bài thơ trẻ vừa được học để trẻ có thể ghi nhớ sâu hơn, để trẻ một lần nữa lại tiếp tục được cảm nhận những c¸i hay cái đẹp trong tác phẩm.
7. Tuyên truyền kết hợp với phụ huynh.
 Như chúng ta đã thấy môi trường tiếp xúc của trẻ chủ yếu là gia đình và nhà trường. Chính vì vậy việc kết hợp giữa gia đình và nhà trường là một biện pháp không thể thiếu. Phụ huynh chính là nhân tố quết định trong việc tạo nguồn nhiên liệu của góc văn học để phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
Trong cuộc họ

Tài liệu đính kèm:

  • docSáng kiến kinh nghiệm - Một số kinh nghiệm trong công tác hướng dẫn trẻ mầm non kể chuyện sáng tạo.doc