Sáng kiến kinh nghiệm: Kinh nghiệm dạy giải Toán có lời văn cho học sinh lớp một

Dạy học “Giải toán có lời văn” là hình thành các kỹ năng giải toán có nhiều ứng dụng thiết thực trong cuộc sống. Góp phần bước đầu phát triển năng lực tư duy, khả năng suy luận hợp lý, diễn đạt đúng (nói và viết) cách phát hiện và giải quyết các vấn đề đơn giản, gần gũi trong cuộc sống; kích thích trí tưởng tượng; gây hứng thú học tập toán; góp phần hình thành bước đầu phương pháp tự học và tự làm việc có kế hoạch, khoa học, chủ động, linh hoạt, sáng tạo.Trong quá trình dạy học và thực hành, đặc biệt là thực hành giải các bài toán có lời văn giúp học sinh có khả năng giải toán phản ánh năng lực vận dụng kiến thức của học sinh. Học giải toán có lời văn là học cách giải quyết vấn đề trong môn toán. Từ ngôn ngữ thông thường trong các đề toán đưa về các phép tính và kèm theo câu lời giải, cuối cùng đưa ra đáp số của bài toán. Giải toán có lời văn góp phần củng cố kiến thức toán, rèn luyện khả năng diễn đạt, tích cực góp phần phát triển tư duy cho học sinh Tiểu học nói chung và học sinh lớp Một nói riêng.

 Trong đó nội dung “Giải toán có lời văn”, có nhiều điểm mới, nổi bật so với yêu cầu môn Toán lớp 1 sau “Cải cách”. Bởi vì ở môn Toán lớp 1 trước “Cải cách”, phần trình bày bài giải các em chỉ cần viết phép tính là đạt yêu cầu. Nhưng đến nay phần trình bày bài giải các em phải biết: Ghi câu trả lời, viết phép tính và ghi đáp số thì mới đạt yêu cầu.

 Do vậy qua quá trình nghiên cứu và thực tế giảng dạy cùng sự trao đổi với đồng nghiệp, tôi thấy học sinh lớp 1 còn gặp nhiều khó khăn vướng mắc khi học về nội dung : “Giải toán có lời văn” dẫn đến chất lượng bài làm chưa cao. Từ đó tôi suy nghĩ tìm hiểu nguyên nhân và đưa ra một số biện pháp khắc phục để giúp các em học tốt nội dung toán “Giải toán có lời văn” đạt kết quả cao.

 

doc 17 trang Người đăng hoaian89 Lượt xem 1149Lượt tải 0 Download
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm: Kinh nghiệm dạy giải Toán có lời văn cho học sinh lớp một", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
để viết câu lời giải: 
 *.Ví dụ 4: Đoạn thẳng AB dài 3 cm và đoạn thẳng BC dài 6 cm. Hỏi đoạn thẳng AC dài mấy xăng ti mét? ( Bài 4 - Trang 125)
 - Mặt khác khi đã hiểu đề toán, nắm vững yêu cầu cần phải tìm thì học sinh có thể dễ dàng giải bài toán đã cho mà không bị sai câu lời giải, sai phép tính, sai danh số..... .
 - Giáo viên phải hướng dẫn hoàn thiện mẫu cách trình bày 1 bài toán có lời văn để mọi học quan sát và học tập.
 Ví dụ 4: 	 Bài giải
 Đoạn thẳng AC dài số xăng ti mét là:
 3 + 6 = 9 (cm)
	 Đáp số: 9 cm.
 Qua cách trình bày trên giáo viên có thể giúp học sinh phát triển kĩ năng tư duy bằng cách tăng cường sự hiểu biết, tìm nhiều câu lời giải khác nhau.
 - Giáo viên nêu câu hỏi: + Ngoài câu trả lời trên em nào còn có câu trả lời khác?
 Học sinh có thể nêu như sau: Đoạn thẳng AC dài là: 
 3 + 6 = 9 (cm)....
 +Giáo viên nêu : 
 - Dựa vào đâu để em viết câu lời giải? (Dựa vào câu hỏi của bài toán để viết câu lời giải.) 
b,Có một số bài toán có câu lời giải còn khó diễn đạt đối với học sinh lớp 1. 
 Ví dụ: Quyển sách của Lan gồm 64 trang, Lan đã đọc được 24 trang. Hỏi Lan còn phải đọc bao nhiêu trang nữa thì hết quyển sách? 
 -Giáo viên cần tập luyện cho học sinh cách diễn đạt nhiều hơn khi giải các bài toán đó, khuyến kích các em biết lựa chọn câu trả lời phong phú, ngắn gọn, rõ ràng, diễn đạt đủ ý da dạng hơn..
 Học sinh có nhiềucách trình bày khác nhau:
 Lan còn phải đọc số trang nữa thì hết quyển sách là:
 Hoặc: Lan còn phải đọc số trang sách là:
 64 - 24 = 40 ( trang)
 Hoặc: số trang sách Lan còn phải đọc là:
 64 - 24 = 40 ( trang) 
 Hoặc: còn lại số trang sách là:
 64 - 24 = 40 ( trang) 
 c, Với một số bộ phận học sinh còn hay sai câu trả lời, sai danh số,.
 - Giáo viên cần dạy học sinh bám sát vào câu hỏi của bài toán để ghi câu lời giải và viết danh số của phép tính. giáo viên nêu câu hỏi gợi ý sau:
 + Hỏi trên bờ có mấy con vịt ?
 + Lan còn phải bao nhiêu tranh sách?
 + Sợi dây còn lại bao nhiêu xăng ti mét?.....
 - Từ câu hỏi trên học sinh sẽ nắm được danh số của bài toán là gì thì học sinh sẽ viết đúng
danh số của phép tính.
 d,. Tuỳ theo sự tiếp nhận của học sinh, có thể cho các em tự đưa ra câu lời giải và tự chọn câu trả lời thích hợp. Song có trường hợp học sinh viết phép tính đúng, đúng danh số nhưng câu lời giải còn viết tắt: 
 Ví dụ 5: Một sợi dây dài 13 cm, người ta đã cắt đi 2 cm. Hỏi sợi dây còn lại dài bao nhiêu xăng ti mét? 
 (Bài 3 - Trang 151)
 + giáo viên phải hướng dẫn học sinh: 
 - Dựa vào đâu để em viết câu lời giải? (Dựa vào câu hỏi của bài toán để viết câu lời giải.) 
 + Giáo viên nêu tiếp:
 - Danh số cần viết ở câu hỏi viết như thế nào, thì câu trả lời viết như thế đó. Từ đó học sinh sẽ hiểu và trình bày bài giải như sau:
 Bài giải
 Sợi dây còn lại số xăng ti mét là:
 13 - 2 = 11 (cm)
 Đáp số: 11 cm
 đ. Sau khi học sinh trình bày bài giải : giáo viên gọi học sinh nhắc lại: Bài giải toán gồm có mấy phần? Là những phần nào? để học sinh ghi nhớ lại bài toán đã học. Song gặp bài toán có số chục, tuần lễ giáo viên cần phải dạy học sinh phải đổi số chục ra đơn vị hoặc đổi tuần lễ ra các ngày trong tuần:
 * Ví dụ: Nhà Lan có 20 cái bát, mẹ mua thêm 1 chục cái nữa. Hỏi nhà Lan có tất cả bao nhiêu cái bát? 
 (Bài 4 - Trang 132)
 Bài giải
 Đổi: 1 chục = 10 
 Nhà lan có tất cả số cái bát là:
 20 + 10 = 30 (cái bát) 
 Đáp số: 30 cái bát	 
	*Bước 5: Kiểm tra bài giải: 
 Kiểm tra tóm tắt, câu lời giải, phép tính và đáp số: Bằng cách đọc lại, làm lại phép tính. Giáo viên cần lưu ý cho học sinh hiểu rõ những điều đã cho, yêu cầu phải tìm, biết chuyển dịch ngôn ngữ thông thường thành ngôn ngữ toán học, đó là phép tính thích hợp. 
	*Bước 6: Rèn luyện năng lực khái quát hoá giải toán.
	 Tổ chức cho học sinh ( khá, giỏi) giải toán nâng dần mức độ phức tạp. Hướng học sinh tìm nhiều cách giải khác nhau để phát triển năng lực toán cho các em giúp các em tập tư duy ngược, tập phát triển ngôn ngữ, tập ứng dụng kiến thức vào các tình huống thực tiễn, để học sinh tự đặt đề toán phù hợp phép tính đã cho hoặc tự đặt đề toán có các số đã biết hay có 1 phép tính cộng, trừ do yêu cầu của cô, tự tóm tắt rồi giải....
 Ví dụ:
 - học sinh tự đặt đề toán theo tóm tắt đã cho, 1 tình huống có sẵn...
 - hoặc: học sinh tự đặt đề toán với phép tính 4 +3 = 7 như sau:
 +Bạn hà có 4 quả cam, Chị An cho Hà 3 quả nữa. Hỏi Hà có bao nhiêu quả cam?......
 - hoặc: Với các số: 7, 4, 3 Có thể có các bài toán sau:
 Nam có 7 viên bi, Nam cho bạn 3 viên bi. Hỏi Nam còn lại mấy viên bi?.................
hoặc: Với phép tính cộng, phép tính trừ, học sinh nêu nhiều bài toán khác nhau......
C/ Kết luận
 Để giúp học sinh lớp 1 học tốt nội dung “Giải toán có lời văn” Tôi đã thực hiện một số biện pháp sau: 
 - Dạy cho học sinh biết nhìn tranh vẽ, tóm tắt để nêu bài toán và viết phép tính thích hợp ứng với các tình huống...
 - Hướng dẫn học sinh nắm vững các bước giải bài toán:
 + Tìm hiểu nội dung đề toán.
 + Tìm cách giải toán.
 + Thực hiện cách giải và trình bày bài giải .
 + Kiểm tra lại bài giải, tìm cách giải khác. 
 - Hướng dẫn học sinh nắm vững bài toán gồm mấy phần, Phần bài giải có mấy bước.
 - Hướng dẫn học sinh biết dùng câu hỏi của bài toán để viết câu lời giải và viết danh số của phép tính.Biết vận dụng kiến thức để làm nhiều dạng bài tập và viết được nhiều phép tính khác nhau nêu được nhiều đề toán dựa vào tóm tắt hay tình huống cho sẵn.
Trên đây là một số biện pháp giúp học sinh học tốt nội dung “Giải toán có lời văn”, mà tôi đã vận dụng trong năm học này và tôi thấy học sinh đã tiếp thu bài tốt và hạn chế được tình trạng học sinh viết sai câu lời giải, sai danh số như trước đây. Rất mong các bạn đồng nghiệp góp ý để mọi giáo viên nếu được giảng dạy lớp 1 có thêm nhiều kinh nghiệm trong giảng dạy nội dung “Giải toán có lời văn” nói riêng và môn toán lớp Một nói chung.
 Xin chân thành cảm!
 Gia Thịnh, ngày 2/ 5 / 2007
 Người thực hiện :
 Nguyễn Thị Chút
Kinh nghiệm giảng dạy
bài: so sánh hai số thập phân (lớp 5).
I/Phần mở đầu.
 Trong toán lớp 5 mạch số học là trọng tâm, là “hạt nhân”vì chiếm tới 51,42% tổng thời lượng dạy học toán 5, các mạch nội dung khác đều sắp xếp xen kẽ nhau quanh “hạt nhân” số học. Các nội dung giáo dục khác (những vấn đề đang được quan tâm về tự nhiên, xã hội gần gũi với cuộc sống của học sinh tiểu học) được tích hợp với các nội dung toán học, tạo điều kiện cho học sinh vận dụng các kiến thức và kĩ năng của toán 5 để thực hành phát hiện và giải quyết các vấn đề trong học tập và đời sống hàng ngày, góp phần thực hiện học đi đôi với hành, lí luận gắn với thực tiễn...Trong nội dung “Số học” lớp 5 thì Chương II “Số thập phân. Các phép tính với số thập phân” là nội dung khá mới mẻ trong chương trình học của các em.
 Qua quá trình nghiên cứu, thực tế giảng dạy và trao đổi với đồng nghiệp tôi thấy sau khi dạy bài “So sánh hai số thập phân” (Tuần 8 -Toán 5) nhiều học sinh còn vướng mắc trong phương pháp so sánh 2 số thập phân dẫn đến chất lượng những bài thực hành luyện tập chưa cao hoặc các em chưa có phương pháp so sánh tốt nhất.
II/ Nội dung.
 1,Thực trạng:
 Qua thực tế giảng dạy “So sánh hai số thập phân” ở lớp 5, tôi thấy học sinh thường có những hạn chế và sai sót như sau:
- Một bộ phận HS chưa nắm được phương pháp so sánh hai số thập phân: bước một phải so sánh phần nguyên trước nhưng các em đếm gộp cả các chữ số ở phần nguyên và phần thập phân
 Ví dụ: So sánh 2001,3 và 299,45
 HS so sánh và có kết quả là: 2001,3 < 299,45
 	- Một số HS so sánh phần nguyên thì rất tốt song so sánh các hàng ở phần thập phân thì còn lúng túng
 Ví dụ: So sánh 240,438 và 240,44 ;
 HS quan sát thấy: phần thập phân của số 240,438 có 3 chữ số 
 phần thập phân của số 240,44 có chữ số
 do đó: 240,438 > 240,44 
- Từ việc so sánh 2 số thập phân còn hạn chế nên HS còn khó khăn trong việc vận dụng cách so sánh 2 số thập phân để giải các dạng bài như : Viết các số theo thứ tự từ lớn đến bé hoặc từ bé đến lớn; Tìm một số tự nhiên x hoặc một số thập phân x
 Ví dụ: a, Tìm số tự nhiên x biết: 0,9 < x < 1,2 ( Bài 4 - Trang 43 SGK )
 b, Tìm một số thập phân x biết: 0,1 < x < 0,2 (Bài 5 - Trang 151 SGK) 
 Các sai sót và hạn chế trên đây của HS lớp 5 tôi thấy nguyên nhân đễu xuất phát từ việc các em còn thiếu hụt cả về kiến thức và kĩ năng trình bày. Cụ thể:
- Chưa nắm được cách so sánh hoặc chưa biết vận dụng các bước so sánh vào việc giải các bài tập.
 - HS chưa nắm vững khái niệm, cấu tạo số thập phân và vị trí từng hàng, giá trị của mỗi chữ số trong số thập phân, quan hệ giữa các đơn vị của hai hàng liền nhau.
- Phương pháp so sánh số tự nhiên ở một số HS còn lúng túng. 
 Để khắc phục tình trạng đó, bản thân tôi có nhiều suy nghĩ tìm tòi, tham khảo, nghiên cứu trong các tài liệu và xây dựng kế hoạch dạy bài “ So sánh hai số thập phân” mong muốn HS lớp 5 khắc phục được tình trạng trên.
 2, Kế hoạch dạy bài : So sánh hai số thập phân ( Tuần 8 - Lớp 5 )
 Mục tiêu: - Giúp HS biết cách so sánh hai số thập phân, biết sắp xếp các số thập phân theo thứ tự từ bé đến lớn (hoặc ngược lại).
 - HS vận dụng giải các bài tập.
 Các hoạt động dạy học:
* HĐ1. Kiểm tra bài cũ
 Mục tiêu: Củng cố cách so sánh hai số tự nhiên
 Cách tiến hành: GV nêu BT
 Điền dấu thích hợp vào chỗ chấm: 3426 ... 927
 86231 ... 86321
 4298 ... 4298
 HS làm bài - nêu kết quả và giải thích cách so sánh 
 + Muốn so sánh hai tự nhiên ta làm như thế nào?
* HĐ2: Tìm cách so sánh 2 số thập phân có phần nguyên khác nhau.
 Mục tiêu: Giúp HS biết cách so sánh 2 số thập phân có phần nguyên khác nhau.
 Cách tiến hành:
- GV nêu VD1: So sánh 8,1m và 7,9m
- Yêu cầu HS tự tìm cách so sánh
- HS trình bày kết quả, sẽ sảy ra một số trường hợp sau:
 + Đổi 8,1m và 7,9m ra đơn vị đo độ dài là 81dm và 79 dm rồi so sánh như số tự nhiên.
 Ta thấy: 8,1m = 81dm
 7,9m = 79 dm
 Vì 81dm > 79 dm nên 8,1m > 7,9 m hay 8,1 >7,9.
 + Viết 8,1m và 7,9m ra đơn vị đo là m dưới dạng phân số rồi so sánh
 Ta thấy: 
 Vì nên 8,1m > 7,9m hay 8,1 > 7,9
 + Nêu luôn kết quả: 8,1m > 7,9m ( Vì phần nguyên có 8 >7 ).
- HS nhận xét các cách so sánh- GV kết luận – Yêu cầu HS tìm cách so sánh ngắn gọn nhất
- Kết luận: Nêu cách so sánh 2 số thập phân có phần nguyên khác nhau?
( Trong 2 số thập phân có phần nguyên khác nhau, số thập phân nào có phần nguyên lớn hơn thì số đó lớn hơn ).
*HĐ3: Tìm cách so sánh 2 số thập phân có phần nguyên bằng nhau, phần thập phân khác nhau.
 Mục tiêu: Giúp HS biết cách so sánh 2 số thập phân có phần nguyên bằng nhau phần thập phân khác nhau.
 Cách tiến hành:
- GV nêu VD2: So sánh 35,7m và 35,698m ( Với đối tượng HS khá giỏi yêu cầu tự lấy VD rồi so sánh )
- HS tự so sánh- nêu kết quả và cách làm, sảy ra 2 trường hợp:
 +Hai số thập phân 35,7m và 35,698m có phần nguyên bằng nhau (đều bằng 35m) ta so sánh phần thập phân:
 Phần thập phân của35,7m là =7dm =700mm
 Phần thập phân của35,698m là = 698mm
 ( Vì 700mm > 698mm nên > → 35,7m > 35,698m )
 +HS nêu:35,7m > 35,698m(Vì phần nguyên bằng nhau, hàng phần mười có7 > 6 )
 Kết luận: Muốn so sánh 2 số thập phân có phần nguyên bằng nhau mà phần thập phân khác nhau em làm như thế nào?
* HĐ4. Tổng hợp quy tắc so sánh 2 số thập phân.
 Mục tiêu: Khái quát thành quy tắc so sánh để HS nắm vững, vận dụng trong quá trình luyện tập - thực hành.
 Cách tiến hành: GV nêu câu hỏi HS trả lời.
- Từ 2 VD trên em hãy nêu cách so sánh 2 số thập phân?
- Yêu cầu HS lấy VD cụ thể minh hoạ
- HS đọc quy tắc SGK.
 * HĐ5. Luyện tập -Thực hành
 Mục tiêu: HS vận dụng quy tắc để làm các bài tập.
 Cách tiến hành: - HS đọc lướt phần luyện tập và nêu dạng bài.
 - HS làm bài GV quan sát hướng dẫn.
 Bài 1. Chữa bài ý a;b
 a,48,97 < 51,02 ( HS khá giỏi: Tìm 1số tự nhiên, sao cho số đó lớn hơn 48,97 và nhỏ hơn 51,02?)
 b, 96,4 > 96,38 (HS khá giỏi: Tìm 1 số thập phân, sao cho số đó lớn hơn 96,38 và nhỏ hơn 96,4? )
 Bài 2. HS tự làm bài, 1 em làm trên bảng lớp ( giải thích cách sắp xếp)
 Kết quả là: 6,375; 6,735; 7,19; 8,72; 9,01
 Bài 3. Tiến hành tương tự như bài 2
 Kết quả là: 0,4; 0,321; 0,32; 0,197; 0,187
( HS khá giỏi: Nếu biểu diễn các số thập phân đó trên tia số thì số nào gần 0,321 nhất? Vì sao? )
 *HĐ6. Củng cố
- HS nêu lại cách so sánh 2 số thập phân?
- Dặn dò HS ghi nhớ quy tắc.
III/ Kết luận
 Khi dạy bài “So sánh hai số thập phân” ở lớp 5 tôi đã sử dụng kết hợp nhiều phương pháp. Trong đó:
-Phương pháp hướng dẫn HS tự tìm tòi, chiếm lĩnh kiến thức mới là phương pháp chủ đạo ( ở HĐ2, HĐ3, HĐ4 )
- Phương pháp thực hành luyện tập (ở HĐ1, HĐ5 )
- Phương pháp đàm thoại.
 Qua việc thiết kế bài dạy như trên, tôi đã áp dụng trong quá trình giảng dạy và đem lại kết quả cao. Tôi xin nêu ra một số bài học kinh nghiệm khi dạy bài “ So sánh hai số thập phân” để bạn đọc cùng tham khảo:
 -Nắm vững đối tượng HS để xây dựng kế hoạch bài dạy cho phù hợp.
 - Những tiết học trước đó, GV cần giúp HS nắm vững khái niệm số thập phân: Mỗi số thập phân gồm hai phần: phần nguyên và phần thập phân, chúng được phân cách bởi dấu phẩy. 
 - Khi dạy HS về các hàng của số thập phân, HS phải hiểu và thuộc được vị trí các hàng từ đó nắm được giá trị mỗi chữ số của số thập phân, quan hệ giữa các đơn vị của hai hàng liền nhau (đặc biệt cần lưu ý các hàng ở phần thập phân).
 - Ôn lại cách so sánh 2 số tự nhiên để HS áp dụng trong bài học.
 - Hoạt động hướng dẫn HS tự tìm tòi chiếm lĩnh kiến thức mới, GV cần nêu yêu cầu để HS tự suy nghĩ tìm cách so sánh 2 số thập phân và nêu cách so sánh của mình. Nếu áp dụng phương pháp này có thể HS nêu nhiều cách so sánh sảy ra vì vậy GV cần phải dự đoán trước được các tình huống HS Có thể đưa ra để GV trở thành trọng tài giải quyết các tình huống đó đảm bảo tính chính xác và tránh thiếu thời gian.
 - Sau mỗi hoạt động cần nêu câu hỏi để HS rút ra được cách so sánh 2 số thập phân từng trường hợp (2số thập phân có phần nguyên khác nhau - HĐ2; 2 số thập phân có phần nguyên bằng nhau, phần thập phân khác nhau - HĐ3 )
 - Kết thúc hoạt động hình thành kiến thức mới cần hướng dẫn HS rút ra được phương pháp ( hay quy tắc- các bước) so sánh 2 số thập phân.
 - Hoạt động thực hành- rèn luyện kĩ năng toán học cần theo hướng phát huy tính tích cực vận dụng phương pháp so sánh để giải quyết các bài toán GV cần phân loại đối tượng có yêu cầu và câu hỏi khắc sâu kiến thức, mở rộng( với đối tượng HS khá giỏi). Đặc biệt GV cần tận dụng thời gian buổi 2 để củng cố kiến thức, rèn kĩ năng cho HS. Trong quá trình tổ chức HS hoạt động thực hành, quy trình phải rõ ràng từng thao tác để HS có thể thực hiện một cách tự nhiên, trường hợp HS thao tác chậm GV cần kiên trì không nóng vội để giúp các em vượt qua những khó khăn, xây dựng lòng tin cho các em.
 Trên đây là kinh nghiệm mà tôi áp dụng khi dạy bài “ So sánh hai số thập phân” ở lớp 5 tôi thấy HS tiếp thu rất tốt và thực hiện thành thạo các bài toán về so sánh số thập phân, góp phần đạt kết quả cao trong học tập. Mong rằng bạn đọc xem xét và góp ý thêm cho tôi để chất lượng bài dạy của tôi ngày càng tốt hơn nữa.
 Gia Phú, ngày 24 tháng 4 năm 2008
 Người thực hiện
 Đào Thị Chiên
 Nam có 7 viên bi, Nam cho bạn 3 viên bi. Hỏi Nam còn lại mấy viên bi?.................
hoặc: Với phép tính cộng, phép tính trừ, học sinh nêu nhiều bài toán khác nhau......
C/ Kết luận
 Để giúp học sinh lớp 1 học tốt nội dung “Giải toán có lời văn” Tôi đã thực hiện một số biện pháp sau: 
 - Dạy cho học sinh biết nhìn tranh vẽ, tóm tắt để nêu bài toán và viết phép tính thích hợp ứng với các tình huống...
 - Hướng dẫn học sinh nắm vững các bước giải bài toán:
 + Tìm hiểu nội dung đề toán.
 + Tìm cách giải toán.
 + Thực hiện cách giải và trình bày bài giải .
 + Kiểm tra lại bài giải, tìm cách giải khác. 
 - Hướng dẫn học sinh nắm vững bài toán gồm mấy phần, Phần bài giải có mấy bước 
 - Hướng dẫn học sinh biết dùng câu hỏi của bài toán để viết câu lời giải và viết danh số của phép tính.
Trên đây là một số biện pháp giúp học sinh học tốt nội dung “Giải toán có lời văn”, mà tôi đã vận dụng trong năm học này và tôi thấy học sinh đã tiếp thu bài tốt và hạn chế được tình trạng học sinh viết sai câu lời giải, sai danh số như trước đây. Rất mong các bạn đồng nghiệp góp ý để mọi giáo viên nếu được giảng dạy lớp 1 có thêm nhiều kinh nghiệm trong giảng dạy nội dung “Giải toán có lời văn” nói riêng và môn toán lớp Một nói chung.
 Xin chân thành cảm ơn!
 Gia Thịnh, ngày 2 /5/ 2007
 Người thực hiện :
 Nguyễn Thi Chút
 Kinh nghiệm dạy 
GIảI toán có lời văn cho học sinh lớp Một
A/ Đặt vấn đề:
 M
ôn toán lớp Một mở đường cho trẻ đi vào thế giới của toán học. Rồi đây các em lớn lên, nhiều em sẽ trở thành những người lao động sáng tạo trên mọi lĩnh vực. Nhưng tôi tin không bao giờ các em quên được những ngày đầu tiên đến trường học đếm và tập viết, Học các phép tính cộng, trừ trong phạm vi 10...và đặc biệt là học “giải toán có lời văn”.
 Dạy học “Giải toán có lời văn” là hình thành các kỹ năng giải toán có nhiều ứng dụng thiết thực trong cuộc sống. Góp phần bước đầu phát triển năng lực tư duy, khả năng suy luận hợp lý, diễn đạt đúng (nói và viết) cách phát hiện và giải quyết các vấn đề đơn giản, gần gũi trong cuộc sống; kích thích trí tưởng tượng; gây hứng thú học tập toán; góp phần hình thành bước đầu phương pháp tự học và tự làm việc có kế hoạch, khoa học, chủ động, linh hoạt, sáng tạo. học giải toán có lời văn là học cách giải quyết vấn đề trong môn toán. Từ ngôn ngữ thông thường trong các đề toán đưa về các phép tính và kèm theo câu lời giải, cuối cùng đưa ra đáp số của bài toán. Giải toán có lời văn góp phần củng cố kiến thức toán, rèn luyện khả năng diễn đạt, tích cực góp phần phát triển tư duy cho học sinh Tiểu học nói chung và học sinh lớp Một nói riêng. 
Do vậy qua quá trình nghiên cứu và thực tế giảng dạy cùng sự trao đổi với đồng nghiệp, tôi thấy học sinh lớp 1 còn gặp nhiều khó khăn vướng mắc khi học về nội dung : “Giải toán có lời văn” dẫn đến chất lượng bài làm chưa cao. 
b/ Giải quyết vấn đề
I.Thực trạng bài làm của học sinh:
 Với cách làm trên thực tế có một bộ phận học sinh không chịu đọc yêu cầu của bài tập, đọc đề toán dẫn đến chưa hiểu các dữ kiện và yêu cầu của bài toán. Khi tìm hiểu đề toán còn bỏ qua một số “từ, thuật ngữ” quan trọng của bài toán, không biết tóm tắt bài toán, không biết diễn đạt bài toán thông qua tóm tắt cho nên dẫn đến khi làm bài thường mắc các lỗi sau: 
1. Một số bộ phận học sinh không biết tóm tắt bài toán: Bởi các em mới bắt đầu làm quen với “Giải toán có lời văn”.
 +Ví dụ1: Quyển sách của Lan gồm 64 trang, Lan đã đọc được 24 trang. Hỏi Lan còn phải đọc bao nhiêu trang nữa thì mới hết quyển sách? (Bài 3 - Trang 158) 
 +Ví dụ 2: Một sợi dây dài 13 cm, người ta đã cắt đi 2 cm. Hỏi sợi dây còn lại dài bao nhiêu xăng - ti - mét? (Bài 3 - Trang 151) 
2. Những bài toán có lời văn là những bài toán gắn với thực tế đời sống các ẹm. Nhưng do do vốn từ, vốn sống của các em còn hạn chế cho nên các em chưa hiểu các dữ kiện và yêu cầu của bài toán. Khi đọc đề bài các em chỉ chú ý đến từ: “ quyển sách, sợi dây...” mà không chú ý đến từ: “trang sách, xăng ti mét...” dẫn đến :
 - Khi trình bày bài giải các em còn hay viết sai câu lời giải :
 Với ví dụ1: có học sinh trình bày câu lời giải như sau:
 Lan còn phải đọc số quyển sách là:
 Hoặc: Số quyển sách Lan còn phải đọc là:
 - Một số học sinh chưa biết sắp xếp các từ cho hợp lý hoặc câu lời giải còn dài dòng chưa cụ thể, ngắn gọn, còn sai danh số:
 Với ví dụ1: Bài giải:
 Lan còn phải đọc số trang nữa thì mới hết quyển sách là:
 64 - 24 = 40 (quyển sách)
 Đáp số: 40 quyển sách.
 - Hoặc khi viết câu lời giải còn viết tắt: 
 Với ví dụ 2: Có em trình bày câu lời giải như sau: 
 Bài giải
 Sợi dây còn lại số cm là:
 13 - 2 = 11 (cm)
3. Do các em đọc chậm, nhận thức chậm nên dẫn đến không hiểu yêu cầu của bài toán nên khi trình bày bài giải không biết viết câu lời giải, sai phép tính..
 +Ví dụ 3: Nhà Lan có 20 cái bát, mẹ mua thêm 1 chục cái nữa. Hỏi nhà Lan có tất cả bao nhiêu cái bát? (Bài 4 - Trang 132) 
 - Với bài toán ở dạng này các em thường sai ở phép tính và đáp số vì học sinh lấy số chục cộng với đơn vị.
 Bài giải:
 Hỏi nhà lan có tất cả bao nhiêu cái bát là:
 20 + 1 = 21 (cái bát) 
 Đáp số: 21 cái bát
Để khắc phục tình trạng này, bản thân tôi có nhiều suy nghĩ tìm tòi, tham khảo, nghiên cứu và mạnh dạn đưa ra một số biện pháp giúp các em học tốt nội dung “Giải toán có lời văn”.
II/. Biện pháp thực hiện:
1) Dạy cho học nắm chắc các bài toán dạng: Viết phép tính thích hợp. 
Ví dụ: 
 Ngay từ học kì I các bài toán được giới thiệu với mức độ cho học sinh nhìn hình vẽ, viết phép tính thích hợp. ở giai đoạn này giáo viên dạy học sinh hiểu đề toán qua hình vẽ, suy nghĩ nêu được bài toán bằng lời thông qua hình vẽ, biết chọn phép tính thích hợp, biết diễn đạt, trình bày ý hiểu của mình. Giáo viên động viên các em viết được nhiều phép tính thích hợp và tăng cường khả năng diễn đạt cho các em...
2) Dạy cho học làm quen với bài toán dạng: Dựa vào tóm tắt để viết phép tính thích hợp:
 Ví dụ 1: Có : 9 quả bóng
 Cho : 3 quả bóng
 Còn : .. .quả bóng?
 Ví dụ 2: Tổ 1 : 6 bạn
 Tổ 2 : 4 bạn
 Cả hai tổ : ...bạn ?
Giáo viên dạy học sinh dần thoát li khỏi những hình ảnh trực quan, từng bước tiếp cận với đề toán. Yêu cầu học sinh phải đọc được và hiểu được tóm tắt, biết diễn đạt đề bài và lời giải bài toán bằng lời, chọn phép tính thích hợp nhưng chưa cần viết câu lời giải. Nhưng giáo viên khuyến kích học sinh (khá - giỏi) có nhiều cách làm, nhiều cách diễn đạt từ một hình vẽ hay1 tình huống như Ví dụ 1, Ví dụ 2.... 
+ Giáo viên hỏi học sinh: 
 - Bài toán cho biết gì? 
 - Sau khi “cho đi”hoặc “gộp cả lại”... thì kết quả so với lúc ban đầu sẽ như thế nào?
 - Muốn biết còn lại bao nhiêu quả bóng em làm thế nào?...
3) Dạy cho học sinh biết cách tiếp cận với một đề toán chưa hoàn chỉnh kèm theo hình vẽ và yêu cầu hoàn thiện đề bài toán:
Giáo viên dạy các em biết tư duy từ hình ảnh phát triển thành ngôn ngữ, thành chữ viết và bước đầu cho học sinh nắm được cấu trúc một đề toán gồm có 2 phần: phần cho 

Tài liệu đính kèm:

  • docSAN 08 TOAN1.doc