Hạnh phúc lớn nhất của trẻ là được đến trường, được học đọc, học viết. Biết đọc, biết viết thì cả một thế giới mới rộng lớn mênh mông sẽ mở ra trước mắt các em.
Học chữ chính là công việc đầu tiên khi các em đến trường. Vì vậy, dạy chữ chính là dạy người.Chữ viết cũng là biểu hiện của nết người .Dạy cho học sinh viết đúng, viết cẩn thận, viết đẹp và góp phần rèn luyện cho học sinh tính cẩn thận, tính kỷ luật, lòng tự trọng đối với mình cũng như đối với thầy và bạn mình.
Chữ viết và dạy viết được cả xã hội quan tâm. Nhiều thế hệ thầy cô giáo đã trăn trở, góp công, góp sức để cải tiến kiểu chữ, nội dung cũng như phương pháp dạy học chữ viết. Tuy vậy , nhiều học sinh vẫn viết sai, viết xấu, viết chậm. Điều đó ảnh hưởng không nhỏ tới các môn học khác.
Đối với học sinh tiểu học là bậc học nền tảng, dạy Tiếng Việt và tập viết Tiếng Việt là chúng ta đã trao cho các em chìa khoá để mở ra những cánh cửa bước vào tương lai, là công cụ để các em vận dụng suốt đời.
Nhận thức được tầm quan trọng đó, tôi đã mạnh dạng chọn đề tài: ‘ Giúp học sinh lớp Một có thói quen giữ vở sạch rèn chữ đẹp”.
vở quăn, không nhãn tên, không bao bìa, viết bài trong vở một cách tùy tiện... Đó là vấn đề tôi thực sự lo lắng và tôi cũng đã có ý kiến này trong cuộc họp tổ chuyên môn. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là do: - Các em mới vào lớp Một chưa có ý thức ngồi học nghiêm túc. - Chưa có ý thức giữ vở sạch ,viết chữ đẹp. - Vở bẩn thường do tay bẩn giây vào, khi viết sai các em thường tẩy xóa, đến khi dùng bút mực các em lại bôi mực ra, lạm dụng tẩy, tay cầm bút không đúng quy định . - Góc vở, mép vở quăn do các em thường lấy tay uốn góc vở để chơi. Thiếu cẩn thận khi lấy vở hoặc cất vở vào cặp . - Bố mẹ ít quan tâm mua sắm dụng cụ học tập không đạt yêu cầu. Vậy bản thân giáo viên chủ nhiệm lớp giúp cho học sinh lớp 1 có thói quen giữ vở sạch, rèn chữ đẹp. 3. Mục đích nghiên cứu: Việc giữ vở sạch - Rèn chữ đẹp là một trong những yêu cầu giáo dục cần thiết. Trong thực tế hiện nay, chữ viết của các em học sinh tiểu học chưa được đẹp, chưa đúng mẫu, sự liên kết giữa các nét chữ và liên kết giữa các chữ cái chưa chuẩn, tốc độ viết còn chậm, học sinh sử dụng nhiều loại bút, nhiều màu mực để viết bài nên còn hạn chế trong việc "Giữ vở sạch- rèn chữ đẹp”. Đây là mảng quan trọng có ảnh hưởng lớn đến chất lượng học sinh và được các trường quan tâm. Nâng cao chất lượng giờ dạy để học sinh viết đúng, viết nhanh, viết đẹp thì phong trào “ Giữ vở sạch- Rèn chữ đẹp” mới có chất lượng. Mặt dù xác định tầm quan trọng như vậy nhưng trong thực tế cho thấy. Qua thăm lớp, dự giờ còn một số giáo viên chưa nắm vững tên gọi của các nét cơ bản để hướng dẫn học sinh. 4.Giới hạn nghiên cứu đề tài: a) Đối tượng nghiên cứu: -Giúp cho học sinh có thói quen "Giữ vở sạch - rèn chữ đẹp"(Gồm các nội dung giữ vở sạch, viết chữ đẹp) b)Phạm vi nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu cho học sinh khối lớp Một ở Trường tiểu học. III/CƠ SỞ LÍ LUẬN: Muốn nâng cao chất lượng chữ viết cho học sinh, người giáo viên cần nắm vững: 1.Yêu cầu cơ bản của dạy tập viết ở lớp 1: - Giúp học sinh có được những hiểu biết về đường kẻ, dòng kẻ, độ cao, cỡ chữ, hình dáng, tên gọi các nét chữ, cấu tạo chữ cái, khoảng cách giữa các chữ, chữ ghi tiếng, cách viết các chữ viết thường, dấu thanh và chữ số. - Viết đúng quy trình nét, viết chữ cái và liên kết các chữ cái tạo thành chữ ghi tiếng theo yêu cầu liền mạch. Viết thẳng hàng các chữ trên dòng kẻ. Ngoài ra học sinh còn được rèn luyện các kỹ năng như: Tư thế ngồi viết, cách cầm bút, để vở,. - Muốn đổi mới phương pháp giảng dạy, giáo viên cần hiểu rõ ý đồ của vở tập viết. Cấu trúc mỗi bài gồm phần tập viết chữ cái và từ ứng dụng. Ở vở tập viết lớp 1 thì cứ sau bài học vần có một bài tập viết thêm để học sinh rèn luyện cách viết các chữ vừa học. - Các ký hiệu trong vở tập viết phải được học sinh nắm chắc như: đường kẻ ngang, quy định độ cao chữ cái, dấu chấm là điểm đặt bút đầu tiên của chữ, ký hiệu luyện viết ở nhà. b/ Chương trình và vở tập viết hiện hành: Vở Tập viết của BGD ban hành giúp học sinh không ngừng nâng cao về chất lượng chữ viết mà còn phối hợp với các môn học khác nhằm phát huy vai trò của phân môn tập viết. Chương trình tập viết lớp 1 gồm có: Học kỳ I: Sau mỗi bài học vần, học sinh được luyện viết những chữ cái các em vừa học và mỗi tuần có thêm một tiết tập viết. Học kỳ II: Mỗi tuần có 1 tiết tập viết, mỗi tiết 35 phút và học sinh được làm quen với chữ viết hoa. IV/CƠ SỞ THỰC TIỄN: Tâm lý tình cảm có ảnh hưởng rất lớn đến quá trình nhận thức. Nếu trẻ được viết trong tư thế thoả mái, tâm trạng phấn khởi thì dễ có kết quả tốt. Ngược lại, nếu trẻ buồn phiền thì chữ viết cũng bị ảnh hưởng. 1.Đặc điểm đôi tay trẻ khi viết: Tay trực tiếp điều khiển quá trình viết của trẻ. Các cơ và xương bàn tay của trẻ đang độ phát triển nhiều chỗ còn sụn nên cử động các ngón tay còn vụng về, chóng mệt mỏi. Khi cầm bút các em có tâm lý sợ rơi. Điều này gây nên một phản ứng tự nhiên là các em cầm bút chặt, các cơ tay cứng nên khó di chuyển. Muốn có thói quen viết chữ nhẹ nhàng, thoải mái, trước hết học sinh phải biết kỹ thuật cầm bút bằng ba ngón tay (ngón cái, ngón trỏ, ngón giữa), bàn tay phải có điểm tựa là mép cuối của bàn tay. Cầm bút phải tự nhiên, đừng quá chặt sẽ khó vận động, nếu lỏng quá sẽ không điều khiển được bút. Nếu các em cầm bút sai kỹ thuật bằng 4 đến 5 ngón tay, khi viết vận động cổ tay, cánh tay thì các em sẽ mau mệt mỏi, sức chú ý kém, kết quả chữ viết không đúng và nhanh được. b/ Đặc điểm đôi mắt trẻ khi viết: Trẻ tiếp thu hình ảnh, chữ viết qua mắt nhìn. Vì vậy, nếu chữ viết được trình bày với kích thướt quá nhỏ hoặc ánh sáng kém thì các em phải cúi sát xuống để nhìn cho rõ chữ, từ đó dẫn đến cận thị. Trong thời gian đầu các em có thể nhận ra đúng hình chữ nhưng bàn tay chưa ghi lại đầy đủ hình dáng của mẫu chữ. Chỉ sau khi luyện tập, số lần nhắc đi nhắc lại nhiều hay ít tuỳ theo từng học sinh , thì các em mới chép đúng mẫu. V/NỘI DUNG NGHIÊN CỨU: Ngay từ đầu năm học, tôi được phân công chủ nhiệm lớp 1D. Qua tình hình thực tiễn của lớp, với một kinh nghiệm nhỏ nhoi tôi đã đúc kết cho bản thân: muốn có được nhiều học sinh " Giữ vở sạch - rèn chữ đẹp" phải nắm được những vấn đề cơ bản sau: 1. Cấu tạo chữ viết: a/ Xác iịnh toạ độ và chiều hướng chữ: - Toạ độ chữ được xác định trên đường kẻ ngang của vở tập viết. Mỗi đơn vị dòng kẻ trong vở gồm có 4 dòng kẻ ngang. Ta kí hiệu đường kẻ trên là số 1,các đường khác là 2,3,4 kể từ dưới lên trên. Ví dụ: → Đường kẻ ngang ↓ Đường kẻ dọc Cách xác định toạ độ trên khung chữ phải dựa vào đường kẻ dọc, đường kẻ ngang và các ô vuông làm định hướng. Đây là một trong những điều kiện để dạy chữ viết thành một quy trình. Quy trình được thực hiện lần lượt bởi các thao tác mà hành trình ngòi bút đi qua toạ độ các chữ. a.1/ Điểm đặt bút: Là điểm bắt đầu khi viết một nét trong chữ cái. Điểm đặt bút có thể nằm trên đường kẻ ngang, hoặc không nằm trên đường kẻ ngang. a.2/ Điểm dừng bút: Là vị trí kết thúc của nét chữ trong một chữ cái. Điểm dừng có thể trùng với điểm đặt bút hoặc không nằm trên đường kẻ ngang. a.3/ Toạ độ điểm đặt hoặc dừng bút: Về cơ bản, toạ độ này thống nhất ở vị trí đơn vị chiều cao chữ cái, có thể ở vị trí trên hoặc dưới đường kẻ ngang. a.4/ Viết liền mạch: Là thao tác đưa ngòi bút liên tục từ điểm kết thúc của nét đứng trước tới điểm bắt đầu của nét đứng sau. Ví dụ: a nối với m → am x nối với inh → xinh → Các nét bút viết liền mạch khi viết không nhấc bút. a.5/ Kỹ thuật lia bút: Để đảm bảo tốc độ trong quá trình viết một chữ cái hay viết nối các chữ cái với nhau, nét bút được thể hiện liên tục nhưng dụng cụ viết (đầu ngòi bút, phấn) không chạm vào mặt phẳng viết (giấy, bảng). Ví dụ: b nối với a → ba → Từ b → a không viết liền được, ta viết chữ b sau đó lia bút sang điểm bắt đầu của chữ a. a.6/ Kỹ thuật rê bút: Đó là trường hợp viết đè lên theo hướng ngược lại với nét chữ vừa viết. Ở đây xãy ra trường hợp dụng cụ viết (đầu ngòi bút, phấn) chạy nhẹ từ điểm kết thúc của nét đứng trước đến điểm bắt đầu của nét liền sau. Ví dụ: Khi viết chữ ph phải viết nét thẳng của chữ, sau đó không nhấc bút để viết mà rê ngược bút lên đường kẻ ngang thứ 2 để viết nét móc 2 đầu. 2. Phương pháp dạy tập viết: a/ Phương pháp trực quan: - Giáo viên khắc sâu biểu tượng về chữ cho các em bằng nhiều con đường: Kết hợp mắt nhìn, tai nghe, tay luyện viết. Điều này giúp các em chủ động phân tích hình dáng, kích thướt và cấu tạo theo mẫu chữ, tìm sự giống nhau và khác nhau của chữ cái đã học trước đó trong cùng một nhóm bằng thao tác so sánh tương đồng. Chữ mẫu có tác dụng: Chữ mẫu phóng to trên bảng hoặc trên máy chiếu sẽ giúp học sinh dễ quan sát , từ đó tạo điều kiện để các em phân tích hình dáng và các nét chữ cơ bản, cấu tạo chữ cái cần viết trong bài học. b/ Phương pháp đàm thoại, gợi mở: Phương pháp này được sử dụng chủ yếu ở giai đoạn đầu của tiết học. Giáo viên dẫn dắt học sinh tiếp xúc với các chữ cái sẽ học bằng một hệ thống câu hỏi, từ việc hỏi về các nét cấu tạo chữ cái, độ cao , kích thướt chữ cái đến việc so sánh nét giống nhau và nét khác biệt giữa các chữ cái đã học với chữ cái đã phân tích. c/ Phương pháp luyện tập: Giáo viên chú ý đến các giai đoạn của quá trình tập viết chữ. Việc hướng dẫn học sinh luyện tập phải tiến hành từ thấp đến cao để học sinh dễ tiếp thu. Lúc đầu là việc viết đúng hình dáng, cấu tạo kích thướt các cỡ chữ, sau đó là viết đúng dòng và đúng tốc độ quy định. Việc rèn luyện kỹ năng viết chữ phải được tiến hành đồng bộ ở lớp cũng như ở nhà, ở phân môn tập viết cũng như ở các phân môn của bộ môn Tiếng Việt và các môn học khác. 3. Rèn nếp viết chữ rõ ràng sạch đẹp: Chất lượng về chữ viết của học sinh không chỉ phụ thuộc vào vào điều kiện chủ quan (năng lực cá nhân, sự luyện tập kiên trì, trình độ sư phạm của giáo viên mà còn có sự tác động của những yếu tố khách quan. Do vậy, muốn rèn cho học sinh nếp viết chữ rõ ràng, sạch đẹp, giáo viên cần quan tâm hướng dẫn, nhắc nhở các em thường xuyên về các mặt chủ yếu sau đây: a/Chuẩn bị sử dùng đồ dùng học tập: Dưới sự hướng dẫn của giáo viên, học sinh được thực hành luyện viết thông qua 2 hình thức: Viết trên bảng (bảng cá nhân - bảng con, bảng lớp) bằng phấn và viết trong vở tập viết (tài liệu học chính thức do Bộ GD&ĐT qui định đối với lớp 1) bằng bút chì, bút mực. Do vậy, để thực hành luyện viết đạt kết quả tốt, học sinh cần có ý thức chuẩn bị và sử dụng có hiệu quả một số đồ dùng học tập thiết yếu sau: - Bảng con, phấn trắng (hoặc bút dạ, khăn lau): + Chuẩn bị bảng con, phấn, khăn lau đúng quy định: Bảng con có dòng kẻ đồng dạng với dòng kẻ li trong vở tập viết. Phấn viết có độ dài vừa phải. Khăn lau sạch. + Sử dụng bảng con hợp lý và đảm bảo vệ sinh: Cầm và điều khiển viên phấn đúng cách. Viết xong cần kiểm tra lại. Tự nhận xét và bổ sung chỗ còn thiếu, giơ bảng ngay ngắn để giáo viên kiểm tra nhận xét. Đọc lại chữ đã viết trước khi xoá bảng. - Vở tập viết, bút chì, buta mực: + Vở tập viết lớp 1 cần được giữ gìn sạch sẽ, không để quăn góc hoặc giây bẩn. Bút chì dùng ở 3 tuần đầu lớp 1 cần được bọc cho cẩn thận, đầu chì không nhọn quá hay dày quá để dễ viết rõ nét chữ. Riêng về bút mực, nên cho học sinh viết bút lá tre hoặc bút mực để chữ viết đẹp. b. Giữ vở sạch: *Yêu cầu: Ngày đầu tiên nhận lớp sau khi thông báo cho học sinh sách vở và đồ dùng học tập cần thiết đối với lớp Một, tôi tiếp tục hướng dẫn cho các em những yêu cầu cần thực hiện trong việc giữ vở: - Vở phải đóng chặt, bao bọc cẩn thận, có bìa, có nhãn tên vở. - Giấy không quăn góc, quăn mép, không nhàu nát. - Vở phải sạch, không giây mực, không bôi bẩn, không tẩy xóa. - Trình bày bài viết trong vở phải đẹp và đúng quy định. Tiếp theo tôi giới thiệu cho học sinh một bộ vở đẹp(đã chuẩn bị sẵn), cho học sinh biết đâu là bìa, nhãn, góc vở, mép vở và các nội dung trình bày bên trong quyển vở. *Các biện pháp: - Đối với học sinh: + Chuẩn bị trước khi vào lớp: .Trước khi vào lớp tôi hướng dẫn các em lấy tất cả sách vở và đồ dùng học tập trong cặp để vào trong ngăn bàn theo thứ tự bên phải để vở, bên trái để sách ở giữa để đồ dùng học tập đặt ngay ngắn, gọn gàng. Khi học xong sắp xếp vào cặp theo từng ngăn để sách vở khỏi bị rách. . Kiểm tra vệ sinh cá nhân nhất là đôi bàn tay để các em khỏi bôi bẩn vào vở.Việc làm này tôi cho các em tổ trưởng kiểm tra thường xuyên vào đầu giờ học. + Đến giờ vào lớp hướng dẫn cho các em tư thế ngồi học đúng, ngồi ngay ngắn, thẳng cột sống, vai ngang bằng ngực cách mép bàn ít nhất 1cm, chân gập thành góc vuông, vòng hai tay trên mặt bàn, mắt nhìn thẳng. + Khi viết bài: hướng dẫn tư thế ngồi học đúng, giữ quyển vở không bị xộc xệch, rách trang, rách bìa. Ở nhà: Tự chọn cho mình (bố mẹ sắp xếp) một góc học tập phù hợp, sắp xếp gọn gàng, ngăn nắp như đã hướng dẫn ở lớp. Học xong môn nào cất ngay môn đó vào chỗ cũ, không để lộn xộn khó tìm mà lại dễ làm rách vở. - Đối với phụ huynh: + Mua sắm cho con em mình đầy đủ sách vở và Đồ dùng học tập chất lượng + Thường xuyên quan tâm đến việc học tập của con ở nhà. + Trong cuộc họp phụ huynh đầu năm tôi triển khai chương trình họp trong đó có nêu vấn đề về tầm quan trọng của việc "Giữ vở -rèn chữ" để giáo viên cùng phụ huynh phối hợp thực hiện việc hướng dẫn con em mình cách giữ gìn sách vở sạch sẽ. c.Rèn chữ: Rèn chữ được hiểu là hướng dẫn cho các em viết đúng, viết đẹp .Vì vậy giáo viên cung cấp đầy đủ cả về kiến thức và kĩ năng viết chữ để góp phần vào việc phát triển toàn diện cho học sinh. *Về kiến thức: Cung cấp những khái niệm về đường kẻ, dòng kẻ, độ cao, độ rộng, tên gọi các nét, các dấu thanh, cách nối nét, liên kết giữa các nét,...Từ đó hình thành cho các em biểu tượng về hình dáng các con chữ, tính thẩm mĩ của chữ viết. *Về kĩ năng: Dạy cho các em kĩ năng viết chữ, liên kết giữa các nét để tạo chữ cái, liên kết giữa các chữ cái để tạo thành chữ ghi tiếng,...hình thành kĩ năng viết đúng mẫu và đẹp. Ngoài ra còn dạy cho các em tư thế ngồi viết, cách cầm bút , để vở, cách trình bày bài viết.Rèn luyện các em tính cẩn thận, kỉ luật. Đối với học sinh lớp 1, việc rèn chữ viết ,chữ số tập trung chủ yếu vào giờ dạy tập viết, luyện tập thực hành trong bài tập chép, chính tả. Một tuần 5 buổi học đều có dành thời gian luyện viết trong giờ học vần. Đó cũng là điều kiện thuận lợi đểcác em rèn chữ được tốt hơn. *Các biện pháp: Hướng dẫn thói quen,nề nếp, tư thế ngồi viết. - Ngồi ngay ngắn,thẳng người, đúng vị trí,lưng thẳng, không tì ngực vào bàn đầu hơi cúi,mắt cách vở khoảng 20-25cm,tay phải cầm bút, tay trái giữ vở. Hướng đẫn cách cầm bút, để vở: - Cầm bút vừa chặt để không trượt ,dùng ngón cái, ngón trỏ,ngón giữa để cầm bút, hai ngón còn lại và phần dưới của bàn tay làm điểm tựa khi viết. Để vở hơi chếch về bên trái so với mép bàn. Hướng dẫn kĩ năng viết: - Xác định đường kẻ, dòng kẻ (dòng li) Viết cỡ chữ vừa nằm trong phạm vi 6 đường kẻ với 5 dòng li. Tất cả các chữ, con chữ đều nằm trên đường kẻ chính. + Xác định cách đặt bút, dừng bút: chia 3 nhóm. . Nhóm đặt bút trên đường kẻ thứ 1: r,s . Nhóm đặt bút trên đường kẻ thứ 2: h, b, k, t, l, y,... . Nhóm đặt bút dưới đường kẻ thứ 3: c, o, a, x,... Đa số các con chữ đều dừng bút trên đường kẻ thứ 2. + HD viết các nét cơ bản: chia 3 nhóm: . Nhóm đồng dạng: o, a, c, d, đ, e... . Nhóm đối xứng: u/n, h/y. . Nhóm nằm kéo dài dưới đường kẻ chính: y, p, q, g. + HD về độ cao: Gồm 5 nhóm . Nhóm cao 5 li:h,b,l,k,g,y . Nhóm cao 4 li: d, đ,q,p . Nhóm cao 3 li: t . Nhóm cao 2,5 li : r,s . Nhóm cao 2 li : e, ê, a, ă, â, c, u... + HD viết các chữ số : chiều cao các chữ số từ 0 đến 9 đều bằng nhau, cao 2 dòng li chuẩn theo chiều dọc.Viết đơn giản, chủ yếu dựa vào nét cơ bản (đứng, ngang, cong). + Bài luyện tập thực hành: Mỗi bài tập viết tôi đều cho các em xác định về độ cao, khoảng cách giữa các con chữ, các tiếng, các từ, cách đặt bút, dừng bút. Sau đó các em luyện viết trên bảng lớp, bảng con, luyện viết vở tập viết, luyện viết khi học các môn học khác. Thường xuyên hướng dẫn cách trình bày, ý thức viết chữ và giữ gìn sách vở sạch đẹp. Sau mỗi bài luyện viết tôi luôn đánh giá về chất lượng chữ viết của học sinh để các em thấy được sự thành công hay hạn chế trong bài viết của mình và tuyên dương những bài viết đẹp để các em khác học tập theo. + Bài tập ở nhà: Hằng tuần vào chiều thứ 3 và chiều thứ 5 tôi hướng dẫn bài tập để các em luyện viết thêm ở nhà. Các bài tập này sẽ được kiểm tra, đánh giá vào sáng hôm sau. - Hướng dẫn trò chơi: + Thi viết đúng, đẹp, nhanh: Ở phần này, trong mỗi giờ tập viết tôi thường tổ chức cho các em chơi trò chơi: "Thi viết đúng, đẹp, nhanh" nhằm củng cố lại kiến thức tập viết đã học và tạo không khí sôi nổi, hứng thú sau mỗi giờ học. Cách tiến hành: HS tự chọn mỗi tổ một em (3 tổ) lên bảng thi viết. Tôi đọc vài từ bất kì trong khoảng thời gian nhất định, em nào viết đúng, đẹp, nhanh nhất là thắng cuộc trong sự vỗ tay cổ động của cả lớp. + Lồng ghép trò chơi trong môn học khác: VD: Môn Đạo đức có bài " Giữ gìn sách vở và đồ dùng học tập" Qua bài học, tôi tổ chức cho các em trò chơi :"Thi sách vở ai đẹp nhất" Cách tiến hành: Tôi nêu yêu cầu trò chơi và công bố thành phần ban giám khảo (GV, lớp phó học tập, lớp trưởng). - Có 2 vòng thi: vòng 1 thi ở tổ, vòng 2 thi ở lớp. -Tiêu chuẩn chấm thi: .Có đủ sách vở, đồ dùng theo quy định. .Sách vở sạch sẽ, không bị dây bẩn, quăn mép,xộc xệch. . Đồ dùng học tập đầy đủ, không xộc xệch ,cong queo. Học sinh cả lớp cùng xếp sách vở , đồ dùng học tập lên bàn. Các tổ tiến hành chấm thi và chọn ra 1-2 bạn khá nhất đẻ vào thi vòng 2. * Tiến hành thi vòng 2. Ban giám khảo chấm và chọn 1-3 em có bộ sách vở đẹp nhất được GV và cả lớp tuyên dương khen thưởng. +"Ai có bộ vở đẹp nhất". Mỗi tháng một lần, tôi thường tổ chức cho các em chơi trò chơi"Ai có bộ vở đẹp nhất" để dựa vào đó tôi xếp loại GV-RC hàng tháng cho học sinh. - Cách tiến hành: Cho các em tự đổi vở để kiểm tra. (tiêu chuẩn chấm giống như trò chơi thứ hai) Tôi phát cho mỗi em một phiếu nhỏ để xếp loại .Các em ghi tên bạn được kiểm tra sau đó xếp loại vào phiếu .Sau đó tôi kiểm tra lại và tổng hợp trên bảng. Thông qua trò chơi tôi thấy các em ngày càng có ý thức hơn trong việc GV-RC. 4. Đổi mnới phương pháp dạy học: Muốn cải tiến quy trình dạy tập viết, điều không thể thiếu được là phải đổi mới phương pháp dạy học, tiết tập viết càng cần phải tạo điều kiện để học sinh chủ động tiếp nhận kiến thức(tự quan sát, nhận xét, ghi nhớ), tự giác luyện tập và rút kinh nghiệm qua thực hành luyện viết dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Có thể thực hiện những yêu cầu trên theo quy trình tập viết như sau: A.Kiểm tra: Kiểm tra học sinh viết bảng con, chữ cái và từ ứng dụng ngắn gọn ở bài trước. B. Bài mới: 1.Giới thiệu bài: Nêu nội dung và yêu cầu tiết dạy - Bài số:.. 2. Hướng dẫn học sinh viết chữ: - Giáo viên đưa chữ mẫu cho học sinh quan sát - Giáo viên gợi ý cho học sinh nhận biết, so sánh: Chữ gì? Gồm mấy nét Nét nào đã học, giống chữ nào đã học, phần nào khác?...( Có thể cho học sinh chỉ vào chữ mẫu trên bảng) - Giáo viên hướng dẫn quy trình viết chữ: + Sử dụng chữ mẫu để học sinh quan sát. + Viết mẫu trên khung chữ thật thong thả cho học sinh theo dõi( ghi nhớ thứ tự các nét). + Viết mẫu trên dòng kẻ ở bảng lớp( hoặc trên bảng con) để học sinh nắm vững quy trình viết chữ cái. Giáo viên viết mẫu sau đó dùng que chỉ lại để mô tả quy trình. - Học sinh tập viết trên bảng con, giơ bảng để giáo viên kiểm tra uốn nén, nhận xét kết quả( chú ý về hình dáng, quy trình). 3. Hướng dẫn học sinh viết ứng dụng: - Giáo viên giới thiệu nội dung viết ứng dụng và viết viết nội dung từ ứng dụng; sau đó gợi ý học sinh hiểu ý nghĩa từ ứng dụng sẽ viết. - Giáo viên hướng dẫn học sinh quan sát và nhận xét về cách viết ứng dụng (chú ý đến các điểm quan trọng: độ cao các chữ cái, quy trình viết liền mạch- nối chữ, khoảng cách giữa các chữ cái, đặt đầu ghi thanh,) - Giáo viên viết mẫu minh hoạ cách nối chữ (do giáo viên xác định trọng tâm ở bài dạy) học sinh theo dõi. - Học sinh tập viết theo trọng tâm nối chữ do giáo viên chọn( chữ ghi tiếng- từ có thao tác nối). Giáo viên theo dõi, kiểm tra, uốn nắn và nhận xét. 4. Học sinh thực hành luyện viết trong giờ tập viết: - Giáo viên nêu yêu cầu và nội dung luyện viết trong vở (viết chữ gì? Viét mấy dòng? Cần lưu ý về điểm đặt bút ra sao? Viết từ ứng dụng mấy dòng? Cần lưu ý về cách nối chữ và đặt dấu thanh, khoảng cách giữa các chữ ra sao?... - Học sinh luyện viết trong vở. Giáo viên theo dõi uốn nắn về cả cách viết và tư thế ngồi viết( chú ý giúp đỡ học sinh yếu kém). 5. Chấm bài tập viết của học sinh: - Giáo viên chấm bài cho học sinh đã viết xong ở lớp (số còn lại thu về nhà chấm). - Nhận xét kết quả chấm bài, khen ngợi những bài đạt kết quả tốt. Nếu bài học đầu giáo viên có thể chọn dạy một nội dung tiêu biểu và học sinh luyện tập theo nội dung tương ứng. VI/ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU: Với các biện pháp trên mà qua 2 năm chủ nhiệm lớp Một, phong trào Giữ vở - rèn chữ ở lớp tôi đạt kết quả như sau: Năm TSHS Loại A Loại B Loại C SL TL SL TL SL TL 2008-2009 24 em 20 83,3% 4 16,7% 0 0 2009-2010 Tháng 9 Tháng 10 Tháng 11 Tháng 12 Tháng 01 Tháng 02 28 em 6 9 13 18 22 26 21,4% 32,1% 46,4% 64,3% 78,6% 92,8% 10 12 13 10 6 2 35,7% 42,9% 46,4% 35,7% 21,4% 7,2% 12 7 2 0 0 0 42,9% 25% 7,2% Trong đó năm học 2008-2009: Có em Đỗ Phương Lam Đạt giải Nhất khối cấp Trường, tham gia dự thi cấp Huyện. Năm học 2009-2010: Đạt 1 em giải KK cấp huyện: Nguyễn Hoàng Huy lớp 1D. * Bài học kinh nghiệm: - Giáo viên thấy được “ Giữ vở sạch – rèn chữ đẹp” là một nhiệm vụ cần thiết trong việc nâng cao chất lượng dạy và học của bậc tiểu học ,từ đó phải có quyết tâm thực hiện tốt việc rèn luyện cho học sinh có nề nếp và đạt chuẩn Vở sạch-chữ đẹp. Đây không chỉ là phong trào mà còn là biện pháp rèn nết người, là điều kiện để học tập tốt. - Có kế hoạch nghiên cứu nắm vững yêu cầu khả năng rèn luyện học sinh có nề nếp Giữ vở sạch – rèn chữ đẹp nói chung và yêu cầu kĩ năng viết của học sinh nói riêng cần thực hiện thường xuyên, khảo sát chấm vở về giữ vở rèn chữ một cách cụ thể. - Đầu năm tiến hành kiểm tra phân loại chữ viết của học sinh, phát hiện những tật chữ phổ biến của từng em để có kế hoạch biện pháp rèn luyện học sinh có kết quả. - Hướng dẫn học sinh cách trình bày bài trong vở một cách cụ thể ,khoa học để làm cơ sở cho các lớp trên. - Phối hợp với phụ huynh để có những biện pháp rèn luyện và tổ chức thi đua khen thưởng kịp thời. -Việc giữ vở và rèn chữ viết không chỉ thực hiện trong tiết tập viết mà còn thực hiện trong các hoạt động học tập ở trường cũng như ở nhà. - Chọn bộ vở tốt nhất lưu lại để giới thiệu cho học sinh những năm sau. VII. KẾT LUẬN: Qua một thời gian áp dụng, tôi thấy học sinh lớp có những chuyển biến rõ rệt về chữ viết.Viết nắn nót, cẩn thận đã thành thói quen của học sinh. Các em luôn tự giác trong học tập, sách vở luôn giữ sạch đẹp. Phong trào “ Giữ vở sạch - rèn ch
Tài liệu đính kèm: