Nâng cao chất lượng dạy môn tiếng Việt và rèn kỹ năng đọc đúng - Đọc tốt cho học sinh lớp 1

I. Lý do chọn đề tài:

Với su thế phát triển giáo dục và đào tạo thế hệ tương lai trên toàn thế giới. Do vậy phát triển sự nghiệp giáo dục và đào tạo trong những thập kỷ qua được Đảng luôn ta coi trọng. Trong bối cảnh của công cuộc đổi mới đất nước, những biến đổi sâu sắc lớn lao của nền kinh tế cũng như chính trị, văn húa xã hội trong nước cũng như trên toàn thế giới. Phải đổi mới trên mọi lĩnh vực giáo dục và đào tạo sự ghiệp "trồng người" trên các mặt: Quan điểm mục tiêu, chủ trương, biện pháp theo hướng nâng cao chất lượng và hiệu quả thiết thực. Bởi vậy Đảng và Nhà nước ta đã nêu cao vai trò: Giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu; bậc tiểu học là nền tảng . Cho nên mục tiêu của giáo dục tiểu học cũng đã nhấn mạnh: "hình thành cho học sinh những cơ sở ban đầu cho sự nghiệp phát triển đúng đắn và lâu dài về tình cảm, trí tuệ, thể chất và các kỹ năng cơ bản ban đầu để học tiếp các lớp tiếp theo hoặc đi vào cuộc sống lao động vững vàng hơn.

 Theo hướng đổi mới phương pháp và nội dung dạy học của học sinh tiểu học với mục tiêu giáo dục toàn diện. Bởi thế các em được học tất cả 9 môn học và các môn tự chọn như tin học, tiếng nước ngài, kinh tế gia đình. Trong tất cả các môn học đó thì Tiếng Việt là bộ môn công cụ trong đó phân môn Tập đọc đóng vai trò hết sức quan trong. Nhất là đối vơí lớp 1, là lớp đầu cấp và là nền móng của chương trình Tiếng Việt tiểu học nói riêng, hiểu biết về các môn học khác nói chung. Bởi vì kỹ năng đọc mỗi khi được hình thành và định hình ở các em nó sẽ theo suốt cuộc

 

doc 15 trang Người đăng hoaian89 Lượt xem 658Lượt tải 0 Download
Bạn đang xem tài liệu "Nâng cao chất lượng dạy môn tiếng Việt và rèn kỹ năng đọc đúng - Đọc tốt cho học sinh lớp 1", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c đều cho rằng: Về mặt tâm lý học sinh tiểu học có những đặc điểm sau "Mỗi học sinh là một chỉnh thể, một thực thể hồn nhiên. Mỗi học sinh tiểu học ẩn chứa một khả năng tiềm tàng phát triển và mỗi học sinh tiểu học là một nhân cách đang hình thành, đang lớn lên và 
đang phát triển". Chính vì vậy những gì chúng ta đưa đến cho các em phải được chọn lọc, bảo đảm đúng đắn, chính xác đúng mục đích.
 	 Vậy mục đích của việc rèn kỹ năng đọc đúng-đọc tốt cho học sinh lớp 1 là gì? mục đích giúp và đưa đến cho các em cảm nhận cái hay cái đẹp. Nhận thức về thế giới xung quanh, về cuộc sống con người và xã hội. Giáo dục tình cảm, rèn luyện ý trí thế giới quan cho con người. Việc rèn luyện kỹ năng đọc cho các em có quyền sử dụng trên một phương diện, giáo dục học sinh có tình yêu đối với dân tộc. Con người phải biết yêu thương nhau. Văn chương sẽ giúp cho các em có tính ngay thẳng thật thà, có lòng dũng cảm có tinh thần nhân ái. Đọc văn giúp học sinh hiểu rằng con người biết yêu lao động và biết tự nuôi sống mình. Bởi lẽ có đó tình yêu đối với dân tộc, với đất nước, lòng trung thực dũng cãm. Tình thân ái đoàn kết là tất cả những điều cần giáo dục học sinh. Nhưng đó là những điều cơ bản mà việc rèn kỹ năng đọc đúng –đọc tốt ở lớp 1 có khả năng đạt được trong quá trình rèn luyện cho các em. Chính vì thế mà tôi lựa chọn đề tài này.
Nhiệm vụ nghiên cứu.
Nghiên cứu cơ sở lý luận và tình hình thược tế. Trên cơ sở đó đưa ra một số biện pháp nõng cao chất lượng dạy môn Tiếng Việt và rèn kỹ năng đọc đúng - đọc tốt cho học sinh lớp 1.
Thời gian, phạm vi nghiên cứu. 
Năm học 2007 - 2008.
- Học sinh lớp 1A trường tiểu học Lê Văn Tám
B. NỘI DUNG:
I. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu:
90% học vào lớp 1 đúng độ tuổi.
Các em đều đã qua mẫu giáo.
Học hết phần vần chương trình tuần thứ 24 thì hầu hết các em đã biết đọc. Song thực tế nhiều em còn ngại đọc vì đọc còn chậm, ngắt nghỉ không đúng chỗ, lên giọng xuống giọng chưa hợp lý đặc biệt khi đọc thơ, ngắt nhịp thơ, câu văn dài, câu hỏi rất lúng túng, ngắt thiếu chính xác. Vì thế khi đọc các em khó có thể thể hiện được tư tưởng, tình cảm nội dung của bài thơ, bài văn ... của tác giả và sự đồng cảm của chính mình. 
	Trong quá trình nghiên cứu tuần 25 các em học phân môn tập đọc, tôi khảo sát lần 1.
TS học sinh lớp 1A
Thời gian KS
Đọc tốt
Đọc khá
Đọc TB
Đọc yếu
SL
TL
SL
TL
SL
TL
SL
TL
20
Tuần 25
3
15%
5
25%
7
35%
5
25%
II. Các giải pháp thực hiện:
- Trong quá trình thực hiện tôi sẽ tìm hiểu phần đọc để đưa ra phương pháp phù hợp.
- Hiểu và nắm chắc phương pháp đổi mới của phân môn. 
- Tìm hiểu tình hình giảng dạy của đồng nghiệp .
- Tìm hiểu bài văn, bài thơ  có trong chương trình lớp 1.
- Thường xuyên kiểm tra phân loại đối tượng học sinh.
 III. Các biện pháp thực hiện.
1. Rèn kỹ năng đọc: Cần chú ý 2 hình thức đó là đọc thành tiếng và đọc thầm.
a. Đọc thành tiếng là phát âm ra âm thanh, khi đọc cần phải phối hợp với các hoạt động tri giác và thính giác: miệng đọc, mắt nhìn, tai nghe, 
Cho các em cảm nhận cái hay cái đẹp của ngôn ngữ văn học, hình tượng văn học qua mỗi bài học. Dạy cho cá em hướng tới cái đẹp của ngôn ngữ, của hình tượng nghệ thuật, hành vi đẹp của các nhân vật và tác giả, giúp cho học sinh cảm nhận được vẻ đẹp của tác phẩm, dung cảm với tác phẩm để có thể nhập vai và đọc hay hơn, dễ khắc sâu kiến thức hơn.
b.Phát triển tư duy.
- Mỗi bài văn, bài thơ, giúp các em nhận thức thêm một mảng nhỏ của cuộc sống. Ngôn ngữ thêm phong phú, tư duy cuả các em thêm phát triển.
- Rèn kỹ năng đọc góp phần phát triển tư duy trừu tượng bên cạnh sự phát triển tư duy lôgic cho các em.
2. Tình hình thực tiễn và phương pháp rèn kỹ năng đọc.
- Tình hình thực tiễn: Đối với học sinh tiểu học người thầy giáo là người đại diện toàn quyền của nền văn minh là tổ chức quá trình học tập của trẻ. Bởi vậy người thấy giáo phải là người mẫu mực có kỹ năng sư phạm thực sự để truyền thụ và nâng cao chất lượng giáo dục.
- Phương pháp: Sử dụng các phương pháp chủ yếu trên từng tiết dạy.
Phương pháp trực quan, phương pháp luyện tập, phương pháp đàm thoại ...
- Phối kết hợp: Tăng tiết luyện đọc, học sinh phải tự luyện đọc ở nhà, thay đổi phương pháp dạy mới, luyện tập trong các tiết học, trò chơi.
3. Khảo sát:
a. Đọc đúng phụ âm đầu, vần, từ ngữ khó, dấu thanh: 
 	Muốn các em rèn kỹ năng đọc tốt thì tiêu chuẩn hàng đầu phải là đọc đúng, đọc đúng là phát âm chính xác, liên kết các từ, câu một cách hợp lý, ngừng nghỉ theo đúng dấu quy ước, đúng với yêu cầu của từng bài văn, bài thơ. 
Đọc đúng là tiền đề, là cơ sở tốt cho việc đọc diễn cảm. Vì vậy mà tôi tiến hành bằng cách khảo sát việc đọc sai phụ âm đầu, vần, từ ngữ khó, dấu thanh qua các bài văn, bài thơ: Hoa Ngọc Lan, Bàn tay mẹ, Ngôi nhà, Mưu chú sẻ, đầm sen, Ngưỡng cửa, Hồ gươm...
	Qua khảo sát thì cho thấy rõ học sinh mắc một số lỗi sai dấu thanh, phụ âm, đặc biệt thanh ngã (~) đọc sai thành hỏi (?) âm tr đọc là ch, âm s đọc thành âm x, âm r đọc thành âm d , an đọc thành ang ...
	Ví dụ: bác sĩ - đọc thành Bác sỉ 
	Xanh thẫm - đọc thành xanh thẩm
 Rì rào - đọc thành dì dào
 Vỏ bạc trắng - đọc thành võ bạc chắng.
 Bàn tay- đọc thành Bàng tay
Có làm như thế thì khi giáo viên luyện đọc cho học sinh đọc đúng thanh điệu và phụ âm đầu dễ lẫn, chứ không mang tính giàn trải.
+ Nguyên nhân của việc đọc sai là: ảnh hưởng cuả việc phát âm tiếng địa phương không chuẩn, do các em không hiểu nghĩa của từ đang đọc, sự cảm thụ văn chương của các em còn hạn chế, do các em chưa phát huy tính tự giác luyện đọc ở nhà.
b. Khảo sát ngắt giọng khi đọc văn xuôi: Đối tượng khảo sát là cả lớp. Tên bài khảo sát: Mưu chú sẻ, Vì bây giờ mẹ mới về, Hồ Gươm ...
Tiêu chí khảo sát: 
 - Ngắt giọng sau dấu chấm là nghỉ dài, hạ thấp giọng.
 - Ngắt giọng sau dấu phẩy: nghỉ hơi ngắn.
 - Ngắt giọng sau dấu hỏi : cao giọng.
 - Ngắt giọng ở câu dài không có dấu phẩy: Nghỉ ngắn hơn so với dấu phẩy.
- Nhịp điệu nhanh hay chậm tùy thuộc vào yêu cầu của bài 
 - Căn cứ vào tiêu chí trên khảo sát kết quả cho thấy:
Ngắt giọng sai sau dấu phẩy :3em chiếm 15%
Ngắt giọng sau dấu chấm: 4 em chiếm 20% 
Ngắt giọng sai sau dấu hỏi : 2 em chiếm 10% 
Ngắt giọng sai sau câu dài không có dấu phẩy: 4em chiếm 20% .
Tóm lại: Ngắt giọng khi đọc bài văn được quy định bởi các yếu tố ngữ pháp: từ đoạn, câu,... nên khi đọc phải ngắt nghỉ sau dấu chấm (.) dấu (,) dấu (’) ... để bài văn được thể hiện mạch lạc rõ ràng, dễ hiểu. Vì vậy khi dạy giáo viên chú ý luyện đọc nhiều ở ngắt giọng câu dài, nhịp điệu của bài. để các em ngắt nhịp đúng khi đọc văn, thơ. Diễn tả được tình cảm của từng đoạn văn, bài văn (vui, buồn, tức giận hay phấn khởi...) thay đổi được giọng đọc, ngữ điệu hoặc nhập vai theo từng tính cách của nhân vật trong bài. Đọc chính là điểm cơ bản của phương pháp rèn kỹ năng đọc đạt hiệu quả.
Khảo sát ngắt nhịp và ngắt giọng cuối mỗi dòng thơ.
Khảo sát qua các lần đọc.
Tên bài: Mẹ và cô, Ngôi nhà, Cái Bống...
- Tiêu chí khảo sát: có những đặc trưng cơ bản cần chú ý đó là thể thơ, nhịp thơ, dòng thơ.
- Thể thơ: tùy thuộc vào bài thơ có thể là thơ 4 chữ, 5 chữ, 6 chữ.. hoặc 4-6 ; 6-8.
- Nhịp thơ: Nhịp điệu được coi là phương tiện truyền cảm nghệ thuật rất có hiệu lực của thơ. Tùy theo nội dung cần truyền đạt, với những nhịp điệu tương ứng: nhịp ngắn thể hiện sự dồn dập: 2/2, 2/2/2... nhịp 4/4 ... thể hiện tình cảm sâu lắng của bài thơ. Phần đọc cần đọc nhanh với nhịp ngắn . Đọc chậm với nhịp thơ dài. 
Tóm lại qua khảo sát kết quả cho thấy số em đọc ngắt nhịp thơ sai chiếm tỉ lệ cao so với ngắt giọng cuối dòng thơ. Vì vậy muốn các em đọc tốt một bài thơ, vấn đề đáng quan tâm nhất khi dạy đọc thơ là "ngắt nhịp thơ"
*Tiểu kết: 
- Rèn kỹ năng đọc cho học sinh lớp 1. Tiêu chuẩn hàng đầu là đọc đúng. 
Qua việc khảo sát trên rút ra những điểm chính sau:
+ Văn xuôi: Hầu hết các em đọc sai phổ biến nhất đối với học sinh địa phương là dấu thanh đặc biệt là thanh hỏi (?) đọc thành thanh ngã (~), phụ âm ch/tr; s/x; r/d, an/ang, ươn/ương ...
- Còn sai dấu phẩy, dấu chấm phần lớn các em đọc đúng.
- Dấu ngã các em đọc tương đối đúng.
- Về nhịp điệu nhanh, chậm, vừa phải, khoan thai hay khẩn trương,... tùy vào nội dung văn cảnh... Tất nhiên đọc đúng nhịp điệu là vấn đề khó song nó là "chiếc cầu nối" giữa đọc đúng 
và đọc diễn cảm. Vì thế giáo viên phải lưu tâm rèn luyện các em đọc đúng nhịp điệu và cũng là luyện đọc diễn cảm. Bởi vậy rèn kỹ năng đọc chính là đọc đúng. Về mặt văn chương là nghệ thuật thể hiện một cách hợp lý mối quan hệ khách quan và chủ quan trong phản ánh của tác giả. Sự thể hiện phù hợp nhịp điệu chủ quan của người đọc và chủ quan của tác giả, sẽ truyền được tiếng nói tâm tình của tác giả đến với người nghe.
-Về đọc thơ: Qua khảo sát thấy rằng phần lớn các em ngắt giọng cuối dòng thơ đều đúng.
Còn ngắt nhịp thơ giữa các dòng thơ còn sai đối với những bài thơ khó. Vì vậy giáo viên nên lưu ý giúp các em ngắt nhịp đúng tạo điều kiện để các em đọc thơ tốt hơn. Đạt hiệu quả cao hơn 
Tóm lại: Muốn rèn luyện kỹ năng đọc giáo viên xác định và ví mình như một người thầy thuốc, có tài chẩn đoán đúng bệnh của bệnh nhân thì chữa trị mới có hiệu quả, phải nắm được mặt mạnh, mặt yếu của bệnh nhân. Phát huy mặt mạnh và có biện pháp tích cực phù hợp giúp các em kịp thời sửa chữa điểm yếu, thì chắc chắn các em sẽ tiến bộ hơn hơn rút ngắn thời gian mà chất lượng cao hơn.
4. Nghiên cứu và thiết kế mỗi tiết dạy trẻ khi lên lớp
	Trước khi nghe để thiết kế bài dạy, tôi luôn tự đạt câu hỏi: Tiết một làm gì? Tiết hai dạy như thế nào? Nhiệm vụ cụ thể của mỗi tiết như sau:
* Tiết 1: 
Kiểm tra bài cũ: - Đọc bài tập đọc vừa học ở bài kế trước.
- Nhận diện một số vần khó vừa học trong một số từ ngữ mới do giáo viên đưa ra. Trả lời câu hỏi về nội dung của bài học kế trước.
Dạy bài mới: 
Hoạt động 1: giới thiệu bài.
GV: Có thể lựa chọn để giới thiệu bài theo những cách sau:
- Sử dụng tranh minh họa cho học sinh quan sát, phát biểu để dẫn vào bài mới.
- Giới thiệu nội dung chính của bài.
- Nhắc lại những nội dung dúng chính của bài cũ rồi dẫn vào bài mới (giới thiệu bắc cầu).
Hoạt động 2: Hướng dẫn luyện đọc.
- Giáo viên đọc mẫu- hướng dẫn đọc .
- Đọc tiếng từ ngữ khó, kết hợp giải nghĩa từ một cách đơn giản chủ yếu giải nghĩa qua trực quan .
- Đọc câu (tiếp nối) 
- Đọc đoạn, bài. Chú ý ngắt nghỉ hơi ở dấu chấm, dấu phẩy. 
Mục tiêu của phần luyện đọc lớp 1 là đọc thành tiếng để củng cố các âm vần mới học; tiến tới đọc trơn nhanh, lưu loát, bước đầu luyện đọc hiểu. Để giúp học sinh đọc lưu loát toàn bài, phần hướng dẫn luyện đọc đi từ dễ đên khó.
Bước 1: Luyện đọc tiếng, từ chú ý luyện đọc tiếng từ khó đọc.
Bước 2: Luyện đọc câu.
Bước 3: Luyện đoạn, bài.
	Về luyện đọc câu với mục tiêu là chia nhỏ độ dài văn bản theo tiêu chí trọn vẹn về nghĩa để học sinh dễ luyện đọc. Trong thực tế có những văn bản có câu tương đối dài, đặc biệt là những câu dẫn lời đối thoại của nhân vật hoặc câu rất ngắn (câu đặc biệt). Giáo viên không nên máy móc xác định câu theo đúng cấu trúc ngữ pháp để hướng dẫn luyện đọc mà nên căn cứ vào khả năng đọc của học 
sinh để quy ước với học sinh đoạn văn bản cần ngắt để luyện đọc. Như vậy đoạn văn bản luyện đọc có thể là hai câu nếu câu quá ngắn, có thể lấy một vế câu, một lời đối thoại, một lới dẫn nếu câu quá dài.
Luyện đọc theo cặp (hoặc nhóm)
Luyện đọc đồng thanh.
+ Một nội dung khác của tiết 1 là ôn luyện một số vần khó hoặc học thêm một số vần ít dùng.
* Tiết 2:
Hoạt động 3: Đọc và trả lời câu hỏi về bài đọc. 
Mục tiêu của phần đọc này là tìm hiểu nội dung bài đọc. Giáo viên hướng dẫn học sinh đọc và chú ý suy nghĩ tìm thông tin, trả lời các câu hỏi của bài đọc. Để tập chung sự chú ý của học sinh, giáo viên cần nêu câu hỏi trước và hướng dẫn học sinh đọc kỹ câu, đoạn cụ thể nào đó để trả lời cho từng câu hỏi; các câu hỏi phải ngắn gọn đơn giản, bám sát nội dung bài, giúp tái hiện, nhớ bài và hiểu nội dung bài.
- Luyện đọc củng cố: Mời 1-2 học sinh đọc bài với yêu cầu đọc đúng và đọc hay.
Hoạt động 4: Luyện nói theo bài đọc (Ký hiệu N) .
- Hướng dẫn luyện nói dựa vào tranh minh họa trong SGK (đặc biệt có những bài dựa vào cuộc sống thực tế hàng ngày của học sinh).
3) Củng cố, dặn dò: 
Giáo viên củng cố lại nội dung chính cuả bài, liên hệ thực tế để rút ra bài học ... dặn học sinh về nhà ôn bài - chuẩn bị trước bài mới.
- (Giữa các tiết học giáo viên nên tổ chức trò chơi để giúp các em thư giản tinh thần, tiếp thu bài được tốt hơn)
5. Phương pháp đàm thoại:
	Đàm thoại là một trong những biện pháp quan trọng nhất của người giáo viên dạy văn. Nó có vẻ nhẹ nhàng hơn vì đã có sẵn câu hỏi trong sách giáo khoa. Tuy vậy song giáo viên không thể chỉ hạn chế vào những câu hỏi có sẵn mà cần 
tìm tòi thêm hoặc biến tấu, mổ xẻ câu hỏi khó hoặc gợi mở để giúp hiểu yêu cầu của câu hỏi và nhằm phát triển tư duy cho các em.
	Đàm thoại là hệ thống câu hỏi và trả lời, những tính chất và đặc trưng của việc sử dụng biện pháp này rất khác nhau. Nó tùy thuộc vào từng giai đoạn trong tiến trình công việc của người giáo viên.
6. Phương pháp trực quan và trò chơi:
a. Trực quan:
Việc sử dụng các phương tiện trực quan như tranh, ảnh, vật thật, bảng...
 Là phương tiện kỹ thuật, tạo điều kiện xây dựng ở học sinh những biểu tượng cụ thể. kích thích duy trì sự chú ý và duy trì sự hứng thú đối với bài học, giúp các em lĩnh hội bài một cách có ý thức. Có thể sử dụng phương tiện trực quan nhằm mục đích minh họa, cụ thể hóa lời trình bày của giáo viên và là nguồn cung cấp tri thức mới.
b.Cách tiến hành:
- Lựa chọn một cách thích hợp các phương tiện sao cho phù hợp với mục đích và nhiệm vụ dạy học của bài học đề ra: xem trong trường hợp nào thì dùng vật thật, các vật tượng trưng hoặc các vật tạo hình; trong trường hợp nào thì dùng chúng hỗn hợp với nhau; lúc nào thì dùng các vật ở trạng thái động; lúc nào thì ở trạng thái tĩnh cần chuẩn bị chu đáo về số lượng và kiểm tra lại tình trạng của chúng.
- Giải thích mục đích trình bày trực quan, trình bày thạo một trình tự nhất định tùy theo yêu cầu của bài giảng. dùng đến đâu ra đến đó, sử dụng song thì cất ngay nhằm tránh sự phân tán của học sinh. 
- Các phương tiện trực quan có thể sử dụng suốt giờ học tùy theo mục đích của bài. Nếu sử dụng đầu giờ nhằm mục đích giới thiệu bài, sử dụng trong giờ nhằm mục đích minh họa bài, sử dụng cuối giờ nhằm mục đích củng cố bài.
- Các phương tiện dạy học trực quan phản ánh trung thực vật hiện tượng. Học sinh cần phải quan sát đầy đủ, rõ ràng có thể phân theo nhóm quan sát. các vật tượng trưng tạo hình này nên tránh các gam màu sặc sỡ, gay gắt vì gây ấn tượng 
mạnh cho các em khi quan sát. nhưng khi cất nó đi rồi học sinh vẫn ám ảnh màu sắc đó, ảnh hưởng đến việc lĩnh hội các tri thức tiếp theo.
Phải đảm bảo phát triển óc quan sát, năng lực quan sát nhanh chính xác và độc lập; quan sát toàn bộ rồi mới quan sát bộ phận, quan sát tập trung vào những chi tiết, những bộ phận chủ yếu; không quan sát tràn lan; tích cực phân tích, so sánh, tổng hợp, khái quát hóa, trừu tượng hóa, tự rút ra kết luận cần thiết.
Đảm bảo kết hợp lời nói với việc trình bày các phương tiện trực quan: 
Hình thức 1: Giáo viên dùng lời nói để hướng dẫn học sinh tự rút ra thuộc tính và các mối quan hệ trực tiếp ấy của chúng.
	Hình thức 2: Từ lời giảng của giáo viên, học sinh tiếp thu được những tri thức bề ngoài của đối tượng về các thuộc tính và mối quan hệ trực tiếp của chúng, còn các phương tiện trực quan giúp khẳng định và cụ thể hóa lời giảng. Như vậy học sinh dễ hiểu, khắc sâu nội dung bài học.
	Thực tế chứng minh rằng việc kết hợp các hình thức trên mang lại hiệu quả tốt như sau: 
	Tuy vậy việc sử dụng phương pháp trực quan; 
* Ưu điểm: 
- Huy động được sự tham gia cảu nhiều giác quan của học sinh sẽ kết hợp chặt chẽ hai hệ thống tín hiệu với nhau, tạo điều kiện cho học sinh dễ hiểu, 
dễ nhớ, gây được mối quan hệ thần kinh tạm thời khá phong phú.
+ Phát triển ở học sinh năng lực chú ý quan sát, hứng thú, óc tò mò khoa học .
+Tạo điều kiện cho các em liên hệ học tập với đời sống thực tiễn.
+ Đối với học sinh tiểu học, đây là phương pháp dạy học phù hợp với đặc điểm nhận thức của lứa tuổi các em.
* Nhược điểm:
+ Nếu sử dụng không đúng lúc, đúng mức, đúng chỗ, các phương tiện trực quan dễ làm học sinh phân tán chú ý, không tập trung vào dấu hiệu cơ bản của nội dung bài học.
+ Mất nhiều thời gian cho việc chuẩn bị cũng như bài giảng trên lớp .
+ Hạn chế việc phát triển tư duy trừu tượng.
Như vậy theo tôi dạy trực quan là rất cần thiết ở bậc tiểu học, nó mang lại hiệu quả cao trong giảng dạy. Nếu người giáo viên có bản lĩnh sư phạm, biết khéo léo sử dụng các phương tiện trực quan điều đó có nghĩa là phải chỉ ra cách thức, con đường cho các em quan sát các phương tiện trực quan, mà như vậy chính là phương pháp dạy học. Một Phương pháp dạy học có thể kết hợp với nhiều phương pháp dạy học khác nhằm đạt được kết quả cao hơn.
c.Trò chơi trong xu hướng phát triển của giáo dục hiện đại, người ta nghiên cứu sử dụng trò chơi để giúp học sinh lĩnh hội tri thức, kỹ năng kỹ xảo và kỹ năng hoạt động sáng tạo điển hình. Trò chơi trong học tập có nhiều loại.
+ Trò chơi sắm vai, trò chơi trí tuệ...
Được dùng thông qua các môn học. Tùy theo nội dung bài học và đặc điểm lứa tuổi các em mà sử dụng khai thác loại trò chơi với ý nghĩa học tập tối đa.
* Cách thực hiện :
+ Giáo viên nêu tên trò chơi 
+giáo viên hướng dẫn cách chơi (phổ biến luật chơi)
+ Học sinh thực hiện 
+ Giáo viên nhận xét đánh giá 
* Một số trò chơi áp dụng vào tất cả các bài văn bài thơ
Trò chơi kết bạn, trò chơi điểm binh... đưa trò chơi vào từng bài học giúp cho các em khắc sâu những vần, những từ ngữ khó, nhớ tên nhân vật, sự vật trong từng nội dung bài học. Qua trò chơi mà học sinh phát huy được tính tích cực chủ động sáng tạo trong học tập một cách tự nhiên và gây hứng thú học tập cho các em.
Ví dụ: trò chơi "Ghép từ" 
+ Giáo viên cho từ cố định, ghép các từ khác. Dấu thanh cố định.
+ Dụng cụ chơi bộ chữ học vần biểu diễn.
+ Giáo viên phân theo nhóm tổ chơi, nếu ai ghép được nhiều từ người đó thắng.
7. Phương pháp tự học ở nhà :
* Cách thực hiện:
- Giáo viên phối hợp với phụ huynh để nhắc nhở bài học.
- Giáo viên phân nhóm học sinh (nhóm trưởng có trách nhiệm kiểm tra nhắc nhở các bạn) 
- Giáo viên phải có thời gian biểu cho học sinh.
- Giáo viên phải thường xuyên kiểm tra đánh giá:
 Giáo viên nên biểu dương nhắc nhỡ không nên phê bình. 
Để gây hứng thú cho học sinh. Trên cơ sở đó:
- Hình thành năng lực độc lập.
- Rèn kỹ năng kỹ xảo thực hành.
- Phát triển tính tự giác, tăng dần tính độc lập.
8. Động viên khen chê kịp thời từng học sinh:
Xuất phát từ đặc điểm của lứa tuổi nên học sinh tiểu học rất thích được cô khen, thích gần gũi, vui vẻ với cô giáo luôn cố gắng làm nhiều điều tốt để được cô giáo khen. Vì vậy, giao tiếp với học sinh việc chúng ta cần làm là phải khen ngợi, động viên, khuyến khích trẻ kịp thời qua từng giờ học. Ngược lại nếu giáo viên động viên không kịp thời thì các em rất dễ nhàm chán và thất vọng vì thế trong giờ học tôi luôn chú ý phát hiện ra những ưu điểm hay những tiến bộ dù rất ít nhưng kịp thời khen ngợi khuyến khích động viên để các em phấn khởi tiến bộ, vui vẻ tự tin trong học tập.
Mặt khác tôi hạn chế tối thiểu việc chê học sinh một cách lộ liễu nhất là đối với học sinh cấp I các em chưa xác định được động cơ đúng đắn trong học tập. 
Bởi vì ở lúa tuổi các em tâm sinh lý ở lứa tuổi các em đang hình thành và phát triển cho nên các em thường hiếu động, thích tìm tòi và ham hiểu biết. Vì vậy đối với những em chậm tiến bộ tôi chỉ nhẹ nhàng nhắc nhở, động viên các em. Từ đó tìm nguyên nhân dẫn đến khuyết điểm thì phải kịp thời uốn nắn và tỏ thái độ không hài lòng để các em sửa chữa sai sót của mình ngay lúc đó và sau này. 
C. KẾT LUẬN
I. Kết quả nghiên cứu:
Trong quá trình giảng dạy áp dụng một số biện pháp rèn kỹ năng đọc đúng- đọc tốt cho học sinh lớp 1 cụ thể đạt kết quả
TS học sinh lớp 1A
Thời gian KS
Đọc tốt
Đọc khá
Đọc TB
Đọc yếu
SL
TL
SL
TL
SL
TL
SL
TL
20
Tuần 35
8
40%
7
35%
5
25%
0
0%
II. Bài học kinh nghiệm:
Rèn kỹ năng đọc là một nghệ thuật có tính độc đáo như âm nhạc và hội họa. Cần chú ý việc sử dụng hình thức rèn kỹ năng đọc vì trong quá trình nghiên cứu ngôn ngữ hay văn học có thể được coi là một biện pháp tùy theo yêu cầu của một bài cụ thể.
Chẳng hạn: Nếu trong khi giảng giải một câu có các thành phần cùng loại là chứng minh ngữ điệu kể, giáo viên đọc diễn cảm câu văn đó thì được coi là một biện pháp. Nhưng khi tiến hành phân tích một tác phẩm. Nhằm mục đích đọc được tác phẩm và hiểu nội dung tác phẩm. Thì đọc rèn kỹ năng đọc được coi là một phương pháp. Rèn kỹ năng đọc cho học sinh là: Đọc đúng ngữ điệu, dấu câu (dấu chấm phẩy, dấu chấm cảm) đọc nhấn mạnh vào các từ quan trọng để làm nổi bật ý nghĩa của câu; ngắt nhịp đúng khi đọc văn, đọc thơ, miêu tả đúng tình cảm của 
từng đoạn văn và thay đổi giọng đọc, ngữ điệu khi đọc lời đối thoại theo từng tính cách của từng nhân vật.
- Rèn kỹ năng đọc cho học sinh chính là đọc đúng về mặt văn chương, là nghệ thuật thể hiện một cách hợp lý mối quan hệ giữa khách quan và chủ quan trong phản ánh của tác giả. Sự thể hiện phù hợp giữa chủ quan của người đọc và chủ quan của tác giả sẽ truyền được tiếng nói tâm tình của tác giả đến người nghe.
- Để phân môn tập đọc có kết quả: Giáo viên phải nắm được đặc điểm tâm lý cho học sinh. Do vốn sống còn nghèo, tư duy còn thiên về cụ thể, độ chú ý không bền ... nên học sinh thường thích làm những gì mình muốn. bởi vậy nếu không xác định rõ nhiệm vụ học tập thì các em cũng rất dễ quên. Việc rèn kỹ năng đọc là một hình thức hoạt động trực quan nó phù hợp với tính hiếu động của các em.
Việc cảm thụ và đọc để hiểu một tác phẩm là một quá trình phức tạp. Về mặt sinh lý trong quá trình này có sự tham gia của cơ quan thính giác, thị giác và bộ máy phát âm chính xác giữ vai trò quan trọng. Vì nó là một bộ phận chính để kiểm tra độ chính xác và tính chất diễn cảm của một lời nói. Khả năng nghe của các em phát triển dần từ lớp 1 ra vốn sống, 
vốn hiểu biết về tiếng Việt và văn học của các em cũ

Tài liệu đính kèm:

  • docSKKN 1 nang cao chat luong mon TV va ren luyen KN doc dung.doc