Đề tài Sáng kiến kinh nghiệm: Vận dụng trò chơi để dạy tốt Tiếng Việt lớp 5

A. ĐẶT VẤN ĐỀ

Trong xây dựng cơ bản, như khi xây một tòa nhà cao tầng hiện đại thì việc xử lý móng là hết sức quan trọng, mà nền móng ngôi nhà lại là phần nằm sâu trong lòng đất, nên người ta thường chỉ nhìn thấy những tầng cao ở trên; chỉ có những người xây dựng, những người có chuyên môn mới thấy ra tầm quan trọng, giá trị đích thực của nó. Bậc Tiểu học cũng được coi như cái nền móng của ngôi nhà tri thức kia, bậc Tiểu học là bậc học đầu tiên, bậc học nền tảng của hệ thống giáo dục quốc dân. Bậc Tiểu học đã tạo những cơ sở ban đầu rất cơ bản và bền vững cho các em tiếp tục học các bậc học trên. Nội dung giảng dạy của Tiểu học luôn gắn liền với thực tiễn, phục vụ thiết thực cho cuộc sống, không chỉ có thế mà mỗi môn học ở Tiểu học đều góp phần vào việc hình thành và phát triển nhân cách học sinh. Trong các môn học, phân môn Tiếng Việt là một trong những môn có vị trí rất quan trọng. Các kiến thức, kĩ năng của môn Tiếng Việt có nhiều ứng dụng trong đời sống, giúp học sinh nhận biết thế giới hiện thực. Ngày nay, sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kĩ thuật và công nghệ thông tin đã làm cho khả năng nhận thức của trẻ cũng vượt trội. Điều đó đòi hỏi những nhà nghiên cứu giáo dục luôn luôn phải điều chỉnh nội dung, phương pháp giảng dạy phù hợp với nhận thức của từng đối tượng học sinh nhằm không ngừng nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện góp phần đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho quê hương, đất nước.

 

doc 18 trang Người đăng minhtuan77 Lượt xem 649Lượt tải 4 Download
Bạn đang xem tài liệu "Đề tài Sáng kiến kinh nghiệm: Vận dụng trò chơi để dạy tốt Tiếng Việt lớp 5", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ghĩ, trăn trở nên tôi đã mạnh dạn chọn đề tài: 
“Vận dụng trò chơi để dạy tốt Tiếng Việt lớp 5”
2. Tầm quan trọng của đề tài:
 Bài tập Tiếng Việt trong sách giáo khoa lớp 5 bao giờ cũng nhằm hình thành cho học sinh một đơn vị kiến thức hay rèn luyện cho học sinh một kĩ năng sử dụng kiến thức tiếng Việt đã học vào một tình huống cụ thể. Mỗi bài tập thường chỉ đề cập đến một khía cạnh của nội dung bài học từ mức độ đơn giản đến phức tạp; từ thấp đến mức độ cao nhằm rèn luyện các thao tác tư duy cho học sinh.
Ví dụ: Tiết Luyện từ và câu bài “Luyện tập thay thế từ ngữ để liên kết câu” Sách Tiếng Việt 5, tập 2, trang 86.
Bài 1: Trong đoạn văn sau, người viết đã dùng những từ ngữ nào để chỉ nhân vật Phù Đổng Thiên Vương (Thánh Gióng)? Việc dùng nhiều từ ngữ thay thế cho nhau như vậy có tác dụng gì?
Bước đầu bài tập chỉ yêu cầu học sinh nhận biết những từ ngữ chỉ nhân vật Phù Đổng Thiên Vương có trong đoạn văn (mức độ biết). Sau đó phải nêu được tác dụng của việc thay thế từ ngữ (mức độ hiểu).
Như vậy thông qua bài tập 1, học sinh được rèn những kĩ năng tư duy ở mức độ thấp đó là: biết - hiểu.
Bài 2: Hãy thay thế những từ ngữ lặp lại trong hai đoạn văn sau bằng đại từ hoặc từ ngữ đồng nghĩa.
Sang bài tập 2, học sinh phải xác định được từ ngữ được lặp lại trong hai đoạn văn và dùng từ ngữ khác để thay thế. Như vậy mức độ yêu cầu của bài tập cao hơn, học sinh phải biết cách vận dụng từ ngữ để thay thế (mức độ vận dụng) và thay thế cho phù hợp, làm cho đoạn văn hay hơn (mức độ phân tích). Muốn đạt được điều đó thì ngoài việc biết cách vận dụng học sinh còn phải biết phân tích xem việc dùng từ ngữ nào là phù hợp nhất để đoạn văn trở nên hay hơn. Thông qua bài tập 2, học sinh được rèn kĩ năng tư duy ở mức độ cao hơn đó là: vận dụng - phân tích.
Hầu như các bài tập tiếng Việt nào ở lớp 5 cũng là một sự luyện tập để nắm vững một kiến thức tiếng Việt hoặc rèn luyện một kĩ năng sử dụng tiếng Việt, rèn luyện các thao tác tư duy. Vì vậy, trò chơi học tập phải thể hiện được yêu cầu rèn luyện của bài tập. Có nghĩa là trò chơi học tập phải mang được nội dung của bài tập, phải rèn được kĩ năng sử dụng tiếng Việt, phải rèn luyện các thao tác tư duy từ mức độ thấp đến mức độ cao theo yêu cầu của bài tập. 
Nắm vững được kiến thức cần đạt đối với các em học sinh lớp 5 ở phân môn Tiếng Việt, nên tôi thiết nghĩ, mình cần phải thay đổi một cách thức dạy học mới sao cho học sinh hứng thú, say mê và tích cực chủ động hơn khi học Tiếng Việt. Qua đó, những kĩ năng giao tiếp ở các em sẽ ngày càng hoàn thiện và phát triển. Và việc vận dụng trò chơi học tập trong môn Tiếng Việt là hết sức quan trọng, hết sức cần thiết. 
3. Đặc điểm tình hình:
Trong nhiều năm qua, mặc dù đã đổi mới phương pháp dạy học Tiếng Việt nhưng một số giáo viên vẫn còn nặng tâm lý đây là môn học chính nên trong quá trình giảng dạy họ rất chú trọng việc truyền thụ kiến thức với mục đích giúp học sinh học tốt môn học này. Việc sử dụng trò chơi học tập đối với một số giáo viên còn là hình thức hoặc có sử dụng trò chơi thì cũng ở mức gượng ép, miễn cưỡng. Mặt khác, còn một số giáo viên khi sử dụng các trò chơi học tập thì chưa chọn lọc kỹ, không có tác dụng thiết thực phục vụ mục tiêu của bài học nên việc tổ chức trò chơi chưa đạt hiệu quả. Thực tế cho thấy, vẫn còn một số đối tượng học sinh thụ động, tự ti, chưa mạnh dạn tham gia vào các hoạt động học tập. 
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
 Học sinh tiểu học luôn thích thú những điều mới lạ. Vì vậy, để mỗi giờ học Tiếng Việt hấp dẫn, thu hút học sinh, đòi hỏi người giáo viên phải luôn luôn sáng tạo trong việc vận dụng những trò chơi học tập cũ đồng thời tìm tòi, nghiên cứu để thiết kế những trò chơi học tập mới.
VẬN DỤNG TRÒ CHƠI HỌC TẬP VÀO GIẢNG DẠY TIẾNG VIỆT
Qua nhiều năm giảng dạy ở bậc Tiểu học nói chung và đặc biệt là dạy học sinh lớp 5, tôi đã sử dụng rất nhiều trò chơi học tập trong dạy Tiếng Việt như: trò chơi ô chữ, ong tìm tổ, đúng sai.Ngoài ra, trong năm học này, được tiếp cận với lớp tập huấn đổi mới về các phương pháp tích cực của phân môn Tiếng Việt, đã cung cấp cho tôi thêm nhiều ý tưởng vận dụng các trò chơi học tập vào giảng dạy nhằm phát triển các kĩ năng sử dụng Tiếng Việt trong giao tiếp của học sinh. Khi vận dụng cần lưu ý một số điểm sau :
a. Các yêu cầu khi vận dụng:
 - Giáo viên cần phải nghiên cứu kĩ mục tiêu của bài tập vì nó quyết định việc chọn trò chơi nào cho phù hợp. 
Ví dụ: Tiết Luyện từ và câu: “Từ đồng nghĩa”, Sách Tiếng Việt 5, tập I, trang 8.
Bài tập 2 : Tìm những từ đồng nghĩa với mỗi từ sau đây : đẹp, to lớn, học tập.
 Bài tập không yêu cầu học sinh nhận diện các từ đồng nghĩa cho sẵn (mức độ hiểu – biết) mà mức độ yêu cầu của bài tập cao hơn, học sinh phải tự nghĩ ra những từ đồng nghĩa phù hợp với từ đã cho (mức độ vận dụng – phân tích). Vì vậy, đối với bài tập này chỉ phù hợp với những trò chơi như: “Ong đi tìm tổ” hoặc tổ chức chơi dưới hình thức thi đua giữa 3 dãy để tìm từ chứ không phù hợp với trò chơi “Tìm bạn”. Nếu ta vận dụng trò chơi “Tìm bạn” đối với bài tập này là vô tình ta làm giảm mục tiêu của bài tập. Vì trò chơi “Tìm bạn” chỉ tổ chức được khi từ ta cho sẵn, học sinh chỉ việc di chuyển và tìm bạn mang từ phù hợp chứ học sinh không tự nghĩ ra từ.
 - Giáo viên cần phải nắm được khả năng của từng học sinh để việc phân nhóm chơi hợp lý, chọn hình thức nào lôi cuốn được đông đảo học sinh tham gia nhất.
 - Khi vận dụng các trò chơi trong học tập Tiếng Việt, người giáo viên nên hoạch định trước việc sử dụng những phương tiện nào để nâng cao hiệu quả của trò chơi. Cụ thể gồm: 
Phương tiện theo nội dung trò chơi quy định (Ví dụ như : Trang phục cho các nhân vật sắm vai  Loại phương tiện này thường được sử dụng trong phân môn Tập đọc, Kể chuyện  giúp học sinh tái hiện lại nội dung câu chuyện hay nội dung bài đọc)
Phương tiện phục vụ cho việc đánh giá (Ví dụ như : Bảng đúng/sai, mặt khóc/mặt cười, ) 
Phương tiện vật chất là phần thưởng cho đội thắng cuộc như các phiếu khen tặng, một bông hoa điểm thưởngHọc sinh sẽ rất thích thú khi biết được chơi thắng cuộc sẽ được thưởng. Nó là động lực để các em tham gia trò chơi nhiệt tình, năng động hơn.
 - Mục tiêu của trò chơi học tập là cung cấp kiến thức và rèn kĩ năng, do đó: 
Sau mỗi trò chơi, giáo viên cần gợi ý để học sinh rút ra các nội dung, kĩ năng mà các em đã học được qua trò chơi.
Việc đánh giá tổng kết trò chơi có thể giao cho học sinh tự nhận xét, đánh giá và tổng kết để phát huy tối đa khả năng của các em, giúp học sinh rèn luyện óc suy luận, kĩ năng tư duy, kĩ năng giao tiếp từ đó các em sẽ trở nên tự tin, mạnh dạn hơn.
 - Ngoài ra, khi tổ chức các trò chơi học tập cho học sinh, giáo viên cũng cần lưu ý đến điều kiện cơ sở vật chất của trường, của lớp; thời gian khi chơi và sức khỏe của học sinh.
b.Cách vận dụng:
 Có rất nhiều cách xếp loại trò chơi học tập :
Theo mục đích sử dụng :
Trò chơi dẫn dắt học sinh tiếp cận tri thức.
Trò chơi rèn kĩ năng thực hành và củng cố kiến thức.
Trò chơi nhằm ôn tập tổng hợp và rèn óc tư duy.
Theo yêu cầu rèn kĩ năng : 
Nghe
Nói 
Đọc
Viết
Theo phân môn : 
Kể chuyện
Luyện từ và câu
Tập đọc
Chính tả
Tập làm văn
Để việc vận dụng trò chơi có hiệu quả, tôi xin trình bày các trò chơi được phân loại theo mục đích sử dụng:
* Các trò chơi dẫn dắt học sinh tiếp cận tri thức: Trò chơi hái quả, trò chơi tìm bạn, trò chơi tập trung
 Sau đây tôi xin giới thiệu cách vận dụng trò chơi “Tập trung” khi dạy bài “Từ đồng nghĩa”, Tiếng Việt 5, tập 1, trang 7. Trò chơi được vận dụng khi tìm hiểu bài.
 Mục tiêu: 
Giúp học sinh bước đầu hiểu được thế nào là từ đồng nghĩa.
Khơi gợi sự tập trung chú ý để tìm tòi kiến thức mới. 
 Chuẩn bị: Đây là khâu khá quan trọng, khâu này quyết định 90% việc tổ chức trò chơi có thành công hay không. Chính vì thế giáo viên phải thực hiện một số việc sau đây :
Chuẩn bị các đồ dùng phục vụ để tổ chức trò chơi. Đối với trò chơi này, giáo viên cần phải chuẩn bị: 1 bộ thẻ ghi các cặp từ có nghĩa giống nhau hoặc gần giống nhau (có thể lấy từ ngữ liệu cần phân tích trong phần nhận xét của bài học ở sách giáo khoa).
Chuẩn bị hệ thống câu hỏi dẫn dắt sau khi kết thúc trò chơi để học sinh rút ra được thế nào là từ đồng nghĩa, đồng nghĩa hoàn toàn và đồng nghĩa không hoàn toàn.
Xác định ra các bước tiến hành trò chơi.
 Tiến hành:
Bộ thẻ từ được đính lên bảng lớp (đặt úp thẻ xuống theo 2 dãy).
Giáo viên chia lớp thành 2 đội chơi. Mỗi đội cử 1 bạn đại diện lật thẻ và oẳn tù tì để giành quyền lật trước.
Đại diện mỗi đội lần lượt lật một thẻ từ ở mỗi dãy lên và trình bày với lớp đây có phải là một cặp thẻ phù hợp hay không. Nếu hai thẻ từ tạo thành một cặp thẻ từ có nghĩa giống nhau hoặc gần giống nhau thì người chơi được giữ cặp thẻ. Nếu hai thẻ không phù hợp, người chơi đặt úp hai thẻ này vào lại chỗ cũ.
Trò chơi kết thúc khi tất cả các cặp thẻ đồng nghĩa được xác định. Đội thắng cuộc sẽ là đội có nhiều cặp thẻ đồng nghĩa nhất.
 Lưu ý: 
Giáo viên cần phải cân nhắc thật kĩ số lượng thẻ từ để thời gian chơi không quá dài, làm mất sự tập trung chú ý của học sinh. Thời gian tiến hành tốt nhất là khoảng 5 phút. Sau đó giáo viên sử dụng hệ thống câu hỏi dẫn dắt học sinh hình thành kiến thức trong vòng 5 phút tiếp theo là hợp lý. Thời gian còn lại nên dành cho việc luyện tập hình thành kĩ năng.
Giáo viên phổ biến cách chơi càng rõ ràng bao nhiêu thì việc tiến hành chơi càng đỡ mất thời gian bấy nhiêu.
Cần chú ý đến màu sắc của thẻ từ và độ lớn của chữ ghi trên thẻ từ sao cho phù hợp, gây được sự chú ý của học sinh, học sinh ngồi cuối lớp vẫn có thể nhìn thấy được.
Trò chơi này cũng có thể vận dụng khi dạy bài “Từ trái nghĩa”. Cách tổ chức như trên nhưng chỉ cần thay đổi ngữ liệu ghi trên thẻ từ. 
* Các trò chơi rèn kĩ năng thực hành và củng cố kiến thức: Trò chơi tìm bạn, trò chơi câu cá, trò chơi thả thơ, trò chơi sắm vai, trò chơi ô, trò chơi tập trung .
 Tôi xin trình bày cách vận dụng trò chơi “Ô” vào phân môn Tập làm văn bài: “Luyện tập tả người”, Tiếng Việt 5, tập 1, trang 132 .
 Mục tiêu: 
Giúp học sinh phát triển vốn từ ngữ miêu tả người, giúp cho các tiết tập làm văn miệng trở nên lí thú hơn với học sinh. 
Tập cho học sinh làm quen với cách làm việc theo nhóm, nói trong nhóm. 
 Chuẩn bị: 
Giáo viên phải phân loại học sinh để việc phân nhóm có sự chủ định. Đối với trò chơi này, tốt nhất là một nhóm chơi chỉ nên có từ 4- 6 em và phải đủ trình độ.
Chuẩn bị bảng trò chơi Ô hình rắn kích thước A0, các bộ thẻ hình, xúc xắc, các vòng nhựa tròn hoặc ngựa đủ cho số nhóm đó phân.
 Bảng ô trò chơi hình rắn Học sinh hoạt động nhóm
 Tiến hành: 
Các nhóm học sinh nhận một bảng trò chơi Ô, bộ ảnh chụp, các vòng nhựa màu sắc khác nhau đủ cho các em trong nhóm và một xúc xắc. 
Các nhóm đặt úp bộ ảnh chụp vào vị trí nơi đặt bộ thẻ hình trên bảng trò chơi Ô. 
Tất cả các em trong nhóm cùng đặt các chấm nhựa tròn của mình vào vị trí bắt đầu. Trong nhóm, lần lượt từng em đổ xúc xắc. 
Tùy theo số trên mặt xúc xắc mà em này sẽ di chuyển vòng nhựa của mình theo số các vòng tròn nhỏ trên bảng trò chơi Ô sao cho phù hợp. Nếu vòng nhựa của em vào vòng tròn màu đỏ lớn, em sẽ lấy một ảnh theo thứ tự từ trên xuống của bộ ảnh. 
Em này xem ảnh và đặt 2 - 3 câu về người hoặc cảnh trong ảnh. Cả nhóm cùng xem ảnh và nhận xét câu miêu tả của bạn.
Sau khi thực hiện xong, em đặt ảnh chụp vào vị trí dưới cùng của bộ thẻ. Nếu vòng nhựa của em vào các vòng tròn nhỏ thì em hết lượt đi. 
Trò chơi sẽ kết thúc khi tất cả các em trong nhóm cùng về đến đích hay tất cả các ảnh đó được học sinh xem và miêu tả hết.
 Lưu ý: 
Trò chơi này có thể vận dụng ở nhiều phân môn khác nhau như : Kể chuyện, Chính tả, Luyện từ và câu, Tập đọc (đọc hiểu), Tập làm văn; chỉ cần thay đổi bộ thẻ hình hoặc câu hỏi ở nơi đặt thẻ. 
Mục tiêu của trò chơi sẽ thay đổi khi ta vận dụng trò chơi này ở những phân môn khác nhau. 
Các trò chơi nhằm ôn tập tổng hợp và rèn óc tư duy: Trò chơi truyền điện, trò chơi tập trung, trò chơi tìm bạn, trò chơi thi viết câu ghép, trò chơi những hình ảnh biết nói
 Sau đây tôi xin giới thiệu cách vận dụng trò chơi : “Truyền điện”.
 Thời điểm chơi cuối tiết Tập đọc – Học thuộc lòng hoặc tiết ôn tập Học thuộc lòng.
 Mục tiêu:
Rèn kĩ năng đọc trôi chảy, diễn cảm bài thơ.
Rèn khả năng tập trung suy nghĩ cao độ.
Rèn phản xạ nhanh, nhạy.
Tạo hứng thú và không khí sôi nổi trong học tập.
 Chuẩn bị: 
Học sinh hai nhóm A và B ngồi quay vào nhau (hoặc đứng thành hai hàng đối diện).
 Tiến hành: 
Giáo viên nêu tên bài thơ sẽ đọc truyền điện, nêu cách chơi: hai nhóm bốc thăm (hoặc oẳn tù tì) để giành quyền đọc trước. 
Đại diện nhóm đọc trước (nhóm A) đọc câu đầu tiên của bài thơ rồi chỉ định thật nhanh (truyền điện), một bạn bất kì của nhóm kia (nhóm B), bạn được chỉ định đọc tiếp câu thơ thứ 2 của bài. 
Nếu đọc thuộc được chỉ định một bạn của nhóm A đọc tiếp câu thơ thứ 3, cứ như vậy cho đến hết bài.
 Lưu ý: 
Trường hợp học sinh được “Truyền điện” chưa thuộc, các bạn nhóm đối diện sẽ hô từ 1 đến 5. Nếu không đọc được phải đứng yên tại chỗ (bị điện giật). Lúc đó học sinh A1 chỉ tiếp học sinh B2 Nhóm nào cứ nhiều người phải đứng (bị điện giật) là nhóm thua cuộc.
Ta có thể vận dụng trò chơi này để kiểm tra kiến thức ở nhiều phân môn khác nhau như: Tập đọc, Chính tả, Luyện từ và câu. Vận dụng như thế nào là tùy vào từng bài, tùy vào mục đích và nội dung cần kiểm tra, củng cố.
Mỗi một trò chơi đều có thể vận dụng với mục đích sử dụng khác nhau. Chẳng hạn như trò chơi “Tập trung” được vận dụng để dẫn dắt học sinh hình thành kiến thức mới như đã giới thiệu ở phần trên nhưng đồng thời cũng có thể vận dụng để rèn kĩ năng thực hành, củng cố kiến thức hoặc ôn tập tổng hợp kiến thức. Điều ấy còn phụ thuộc vào mục tiêu của từng bài tập. 
 Tóm lại: Việc vận dụng trò chơi học tập trong môn Tiếng Việt là rất cần thiết.Thông qua trò chơi, các kĩ năng đọc, viết, nghe, nói được rèn luyện, đồng thời kích thích khả năng ứng xử ngôn ngữ của học sinh, rèn luyện tư duy linh hoạt và tác phong nhanh nhẹn, tháo vát, tự tin cho học sinh. Tuy nhiên, việc vận dụng trò chơi học tập phải luôn đi kèm với việc sáng tạo thiết kế ra trò chơi mới bởi học sinh tiểu học luôn ham thích những cái mới lạ. 
THIẾT KẾ TRÒ CHƠI HỌC TẬP: 
 Ngoài vận dụng, giáo viên phải biết thiết kế hoặc chuyển đổi một số trò chơi để giảng dạy. Khi thiết kế thì cần :
 Xác định rõ mục tiêu của bài tập để chọn trò chơi phù hợp:
- Việc xác định yêu cầu của bài tập rất quan trọng, mục tiêu của bài tập là cơ sở để lựa chọn trò chơi sao cho phù hợp. Một bài tập có thể tạo nên những trò chơi khác nhau.
Ví dụ: Bài tập 2 tiết Chính tả SGK/46. Tìm các tiếng có chứa uô, ua trong bài văn “Anh hùng Núp tại Cu-ba”. Mục tiêu của bài tập là học sinh nhận diện được các tiếng có chứa vần uô, ua. 
 Khi đó ta có thể tổ chức trò chơi có nội dung: Xếp các tiếng trong tập hợp sau thành 2 nhóm, một nhóm gồm các tiếng có vần uô và một nhóm gồm các tiếng có vần ua. Nếu yêu cầu của bài tập chỉ là tìm từ có tiếng chứa vần uô hoặc ua thì mục tiêu của bài tập sẽ là mở rộng vốn từ. Khi đó ta có thể tổ chức trò chơi có nội dung: Tìm từ chứa tiếng uô và ua dưới hình thức thi đua giữa hai dãy.
 Tiến hành thiết kế trò chơi:
Giáo viên tiến hành thiết kế trò chơi có hình thức chơi rõ ràng (người chơi, cách chơi), nội dung thực hiện trò chơi phải đảm bảo nội dung bài tập của Sách giáo khoa hoặc bổ sung thêm nội dung tùy vào việc xác định mục tiêu bài tập cần đến của giáo viên. Đồng thời thông qua đó rèn những kĩ năng cần thiết cho học sinh.
Một nội dung trò chơi có thể được thể hiện thành các hình thức tổ chức trò chơi khác nhau.
Ví dụ: Nội dung trò chơi xếp các từ trong tập hợp sau thành hai nhóm : Một nhóm gồm các từ chỉ người, cơ quan, tổ chức thực hiện cùng việc bảo vệ trật tự- an ninh; một nhóm gồm các từ chỉ hoạt động bảo vệ trật tự, an ninh hoặc yêu cầu của việc bảo vệ trật tự, an ninh.
Ta có thể có các hình thức tổ chức chơi như sau :
Trò chơi: Chung sức.
Giáo viên phát cho mỗi nhóm một tờ giấy. Theo lệnh của giáo viên, từng nhóm bàn bạc với nhau để thực hiện yêu cầu của trò chơi. Khi nhóm đó thống nhất thì ghi kết quả vào giấy. Ghi xong, dán tờ giấy của nhóm lên bảng lớp. Giáo viên sẽ tính điểm các nhóm theo hai chuẩn: Chuẩn chính xác và chuẩn nhanh nhẹn.
Trò chơi: Thi tài.
Đơn vị chơi bây giờ là cá nhân. Từng em nhận yêu cầu của trò chơi và ráng sức tự mình giải quyết yêu cầu của trò chơi. Giáo viên sẽ tìm điểm thi đua cho cá nhân.
Trò chơi: Hai người ba chân.
Đây là biến tướng của trò chơi tiếp sức. Cứ 2 em trong nhóm phải dùng dây buộc chân trái của mình với chân phải của một bạn khác. Hai bạn sẽ chỉ hoạt động được ba chân. Từng cặp hai em phải đi bằng ba chân lên bảng để thực hiện thao tác xếp từ theo nhóm.
Trò chơi: Giành cờ chiến thắng
 Giáo viên phát cho mỗi nhóm một tờ giấy (Đã có các câu hỏi hoặc bài tập ứng với số lượng học sinh trong nhóm). Theo lệnh của giáo viên, học sinh trong nhóm sẽ truyền tay nhau để làm bài, nếu nhóm nào làm xong, đúng (Do Ban giám khảo gồm: Giáo viên và một số học sinh được các bạn bầu sẽ kiểm tra công nhận đúng) nhóm sẽ được lên giành cờ chiến thắng.
Trò chơi: Đi siêu thị
Giáo viên phát cho mỗi nhóm một yêu cầu của bài và một chiếc giỏ cùng với một số tiền (đồ chơi). Nhóm thảo luận, sau đó từng bạn sẽ lên mua (tìm mua những ý đúng do GV đã chuẩn bị sẵn có trong đồ vật), trong nhóm bạn nào cũng được lên mua. Nhóm nào mua sắm xong trước, đúng nhóm đó sẽ thắng cuộc.
 Tiến hành làm các đồ dùng phục vụ trò chơi:
 Để tổ chức được các trò chơi thì cần phải có những đồ dùng phục vụ nên khi thiết kế các trò chơi, người giáo viên cần phải làm thêm các đồ dùng dạy học phục vụ cho trò chơi đó. Đồ dùng dạy học cần phải đảm bảo được tính thẩm mỹ và khoa học.
 Sau đây là một số trò chơi mà tôi đã thực hiện:
Trò chơi dẫn dắt học sinh tiếp cận tri thứ:
Trò chơi “Thầy đồ viết chữ’’
 Trò chơi được vận dụng vào phân môn Luyện từ và câu, bài : “Từ trái nghĩa” Tiếng Việt 5, tập 1, trang 38.
Mục tiêu: Giúp học sinh :
Nhận biết từ trái nghĩa, tác dụng của từ trái nghĩa khi đặt cạnh nhau.
Khơi gợi sự tập trung chú ý của học sinh khi học kiến thức mới.
 Chuẩn bị: 
Các mảnh vải hoặc giấy để ghi vế câu như sau :
Chết 
Vinh
Hơn
Sống
Nhục
Chết 
Vinh
Hơn
Sống
Nhục
Hệ thống câu hỏi khai thác: “Tìm từ trái nghĩa với nhau trong câu? Cách dùng từ có tác dụng như thế nào trong việc thể hiện quan niệm sống của con người Việt Nam ta?” để học sinh tìm ra từ trái nghĩ và tác dụng của từ trái nghĩa khi đặt cạnh nhau.
 Tiến hành: 
Giáo viên cho học sinh đọc Bài tập 2, Bài tập 3 (Phần I – Nhận xét) để tìm hiểu yêu cầu của bài.
Chia nhóm cho học sinh viết câu và thảo luận.
Nhóm nào viết xong câu nhanh và trình bày kết quả thảo luận đúng theo yêu cầu là nhóm thắng cuộc.
 Lưu ý: 
Chữ viết đúng, trình bày đẹp.
Các từ trái nghĩa với nhau trong câu cần phải cho người khác khi nhìn vào là thấy được ngay. 
Ví dụ : Từ “chết” trái nghĩa với từ “sống”; từ “vinh” trái nghĩa với từ “nhục”.
Đại diện nhóm lên trình bày đúng, rõ ràng mạch lạc.
Giáo viên cần quy định thời gian chơi để đảm bảo thời gian thực hành các bài tập trong SGK.
Số mảnh vải hoặc giấy tùy thuộc vào số nhóm mà giáo viên chia.
Các trò chơi rèn kĩ năng thực hành và củng cố kiến thức:
Trò chơi “Chọn ô số”
 Trò chơi được vận dụng vào phân môn Tập làm văn, bài : “Luyện tập tả người” Tiếng Việt 5, tập 1, trang 132.
 Mục tiêu: Giúp học sinh:
Phát triển vốn từ ngữ miêu tả người, đặc biệt là các từ miêu tả về ngoại hình.
Phát triển kĩ năng trình bày.
 Chuẩn bị: 
Một bộ ảnh chụp nhiều người ở các độ tuổi, giới tính, nơi chốn khác nhau có đánh số từ 1 đến n (n là số ảnh chuẩn bị được).
Bảng phụ có kẻ sẵn ô số như sau:
1
2
3
4
5
6
7
8
9
 Tiến hành: 
Giáo viên gọi một học sinh lên bảng tham gia trò chơi (khuyến khích học sinh xung phong).
Học sinh được gọi lên chọn một số bất kì trên bảng phụ. Sau đó giáo viên (hoặc cử một học sinh khác) dán bức ảnh có số tương ứng lên bảng, người chơi có nhiệm vụ miêu tả về người trong ảnh (từ 2 - 3 câu).
Giáo viên gọi tiếp một số học sinh khác tham gia trò chơi (số lượng phụ thuộc vào thời gian dành cho trò chơi).
Khi trò chơi kết thúc, giáo viên và cả lớp bình chọn người chơi miêu tả hay nhất. Học sinh nào có số phiếu bình chọn nhiều nhất sẽ là người thắng cuộc.
 Lưu ý: 
Trò chơi này còn có thể vận dụng vào phân môn Luyện từ và câu bài: “Nối các vế câu ghép bằng quan hệ từ”. Giáo viên chỉ cần thay thế các ảnh chụp bằng những phiếu yêu cầu như: Em hãy đặt câu có sử dụng cặp từ quan hệ nguyên nhân - kết quả; Điều kiện – kết quả ; Tương phản.
Giáo viên có thể thay đổi hình thức chơi bằng cách chia số học sinh trong lớp thành 3 dãy thi đua với nhau.
Trò chơi “Đếm số cánh hoa”
 Trò chơi được vận dụng để củng cố lại kiến thức của bài chính tả ở sách Tiếng Việt 5, tập 1, trang 87.
Bài tập 3: Thi tìm nhanh :
Các từ láy âm đầu l.
Các từ láy vần có âm cuối ng.
 Mục tiêu: Giúp học sinh:
Ôn lại cách viết những từ ngữ có tiếng chứa âm đầu l và âm cuối ng.
Nhằm để khắc phục lỗi chính tả n/l, n/ng.
 Chuẩn bị: 
Nhiều miếng bìa cắt theo hình cánh hoa (hình 1a)
Vẽ trực tiếp lên một tờ giấy to 2 vòng tròn làm hai nhị hoa. Trong mỗi nhị hoa ghi: các từ láy âm đầu l; các từ láy vần có âm cuối ng (hình 1b)
Các từ láy âm đầu l
Các từ láy vần có âm cuối ng
 Hình 1a: Cánh hoa Hình 1b: Nhị hoa 
 Tiến hành: 
Giáo viên chia học sinh thành nhiều nhóm chơi tùy theo số bộ nhị hoa và cánh hoa chuẩn bị được.
Khi trò chơi bắt đầu, các nhóm chơi có nhiệm vụ ghi từ theo yêu cầu vào các cánh hoa (mỗi cánh hoa chỉ ghi một từ) rồi dán vào nhị hoa cho phù hợp.
Sau 5 - 7 phút, giáo viên hô : “Dừng chơi!” Nhóm nào dán được nhiều cánh hoa đúng và đẹp sẽ thắng cuộc.
 Lưu ý: 
Trò chơi này còn có thể vận dụng vào phân môn Luyện từ và câu ở các bài : Từ đồng nghĩa, Từ trái nghĩa, Ôn tập về từ loại  chỉ cần thay đổi yêu cầu ghi trên nhị hoa.
Khi kết thúc trò chơi, để khắc sâu kiến thức của bài, giáo viên có thể yêu cầu học sinh đặt câu với một vài từ tìm được và chuẩn bị sẵn các phiếu khen thưởng để động viên các em.
c. Trò chơi nhằm ôn tập tổng hợp và rèn óc tư duy:
Trò chơi “Ai nhớ 

Tài liệu đính kèm:

  • docSKKN vận dụng trò chơi để dạy tốt tiếng việt 5.doc