Đề tài Một số phương pháp giúp học sinh học tốt môn Toán lớp 1

Công cuộc đổi mới kinh tế, xã hội đang diễn ra từng ngày, từng giờ trên khắp đất nước. Nó đòi hỏi phải có những lớp người lao động mới có bản lĩnh, có năng lực, chủ động, sáng tạo, dám nghĩ dám làm, thích ứng được với thực tiễn đời sống xã hội luôn luôn phát triển. Nhu cầu này làm thay đổi tất yếu về nội dung và phương pháp dạy học của nhà trường.

Những năm vừa qua phương pháp dạy học, một số giáo viên có tâm huyết với nghề, có hiểu biết sâu sắc về bộ môn, có tay nghề khá và nhạy cảm trước yêu cầu của xã hội đã thực hiện nhiều giờ dạy tốt, phản ánh được tinh thần của xu thế mới. Tuy nhiên, phổ biến hiện nay vẫn là cách dạy thông báo kiến thức có sẵn, dạy học theo phương pháp “thuyết trình có kết hợp với đàm thoại” là chủ yếu mà về thực chất vẫn là “thầy truyền đạt, trò tiếp nhận và ghi nhớ”.

Một nét nổi bật hiện nay là nhìn chung học sinh chưa biết cách tự học, chưa học tập một cách tích cực. Nếu tiếp tục cách dạy học thụ động như thế sẽ không đáp ứng được những yêu cầu mới của xã hội. Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và sự thách thức trước nguy cơ tụt hậu trong cạnh tranh trí tuệ đang đòi hỏi phải đổi mới giáo dục, trong đó thực hiện một số phương pháp dạy học. Đây không phải là vấn đề của riêng nước ta mà là vấn đề đang được quan tâm của mọi quốc gia trong chiến lược phát triển nguồn nhân lực con người phục vụ các mục tiêu kinh tế - xã hội.

Chương trình Toán lớp 1 là một bộ phận của chương trình môn Toán ở Tiểu học, chương trình này kế thừa và phát triển những thành tựu về dạy học Toán lớp 1 ở nước ta; khắc phục một số tồn tại của dạy học Toán lớp 1 trong giai đoạn vừa qua. Thực hiện một số phương pháp dạy học môn Toán ở Tiểu học nói chung, ở lớp 1 nói riêng cũng chính là để đáp ứng những yêu cầu của giáo dục và đào tạo trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đầu thế kỷ XXI.

 

doc 32 trang Người đăng hong87 Lượt xem 979Lượt tải 1 Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Đề tài Một số phương pháp giúp học sinh học tốt môn Toán lớp 1", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
o thấy hình thức tổ chức trò chơi toán học dễ được học sinh hưởng ứng tích cực và tham gia.
Xét về mục đích phục vụ dạy học nói chung, trò chơi toán học có thể là:
+ Trò chơi nhằm dẫn dắt, hình thành tri thức mới.
+ Trò chơi nhằm củng cố kiến thức, luyện tập kỹ năng.
+ Trò chơi nhằm ôn tập, rèn luyện tư duy trong giờ ngoại khóa.
Sau đây tôi xin đưa ra một vài ví dụ về trò chơi toán học mà tôi đã sử dụng ở lớp mình.
Ví dụ 1: Sau khi học xong các bài: Hình vuông, hình tròn; Hình tam giác tôi tổ chức cho các em chơi trò chơi “Bịt mắt chọn hình”.
Mục đích: Luyện kỹ năng nhận dạng hình
Chuẩn bị: 25 hình bằng bìa cứng (5 hình vuông, 5 hình tam giác, 5 hình tròn, 5 hình tứ giác không vuông, 5 hình có đường bao cong nhưng không tròn)
Cách chơi: 3 học sinh cùng chơi, đặt tên cho một em là “hình tam giác”, một em là “hình tròn”, một em là “hình vuông”. Sau khi bị bịt kín mắt, mỗi em phải lấy ra các miếng bìa có hình trùng với tên của mình. Ai lấy đủ 5 hình trước là người thắng cuộc.
Ví dụ 2: Để củng cố cho học sinh về phép cộng, phép trừ trong phạm vi 5, tôi tổ chức cho học sinh chơi trò chơi “Buộc dây cho bóng”
Chuẩn bị: 4 tờ bìa có hình vẽ, gồm 2 phần:
- Phần trên: vẽ hình các quả bóng bay, trên mỗi quả có ghi một phép tính cộng hoặc trừ trong phạm vi 5.
- Phần dưới: Vẽ một cụm các ô vuông ghi các kết quả của các phép tính trên.
Cách chơi: Học sinh nối bóng với ô, ghi kết quả thích hợp ở dưới. Mỗi em trong đội chỉ được nối một lần và chuyển cho bạn khác nối tiếp. Tổ nào xong trước, nối đúng là tổ đó thắng.
Ví dụ 3: Giúp học sinh ghi nhớ các bảng tính đã học và rèn luyện tính nhanh nhẹn, tôi tổ chức cho học sinh chơi trò chơi “Đúng – sai”
Cách chơi: Cử 2 đội chơi, mỗi đội 5 em; cử 1 em làm thư ký.
Giáo viên lần lượt đưa ra các phép tính, chẳng hạn: 6 – 5 = 1;	3 + 2 = 5; 	 6 - 3 = 2; Sau mỗi phép tính đưa ra, các đội chơi phải có sự phản hồi lại nhanh (đúng hay sai) bằng cách đưa ra các tấm bìa đỏ hoặc xanh.
Mỗi lần trả lời đúng với đáp án thì cộng 1 điểm và sai thì bị trừ 1 điểm. Cuối cuộc chơi đội nào nhiều điểm sẽ thắng.
Ví dụ 4: Để rèn luyện cho học sinh cách đặt một đề toán tôi tổ chức cho các em chơi trò chơi “Nhìn vật đặt đề toán”.
Tôi chia học sinh thành 2 đội, cử đại diện (mỗi đội khoảng 5 đến 7 em) và mang một số đồ vật của nhóm mình lên. Ví dụ: 6 cái bút hay 9 que tính (từ 1 đến 10) (Đồ vật cùng loại).
Cách chơi: Hai đội đứng quay mặt vào nhau: Một bạn của đội này cầm đưa lên một số bút (ví dụ 5 cái), đội kia phải nói được: “Có 5 cái bút” (hoặc “Bạn có 5 cái bút). Bạn đó tiếp tục cho đội bạn hoặc đội mình một số cái (ví dụ 2 cái), đội kia phải nói được: “Cho đi 2 cái”. Bạn đó đưa số bút còn lại lên. Đội kia phải nói: “Còn lại mấy cái bút?”. Sau đó lại đổi bên.
Đội nào mà không đặt đề toán đúng đội đó sẽ thua. Nếu cả hai đội đặt đúng, đặt hay. Tôi khen tất cả các em.
2. Phương pháp trực quan: Là phương pháp giảng dạy dựa trên cơ sở những hình ảnh cụ thể: hình vẽ, đồ vật và thực tế xung quanh để hình thành kiến thức cho học sinh.
Với phương pháp này tôi tổ chức, hướng dẫn các em học sinh hoạt động trực tiếp trên các sự vật cụ thể nhờ vậy học sinh nắm được chắc chắn kiến thức và kỹ năng tương ứng. 
Ví dụ: Khi dạy bài “Hình tam giác”, tôi chuẩn bị các hình tam giác bằng bìa có màu sắc, kích thước, hình dạng khác nhau và đặt ở những vị trí khác nhau cho học sinh quan sát. Qua các hình ảnh cụ thể đó, tôi hình thành cho các em biểu tượng về hình tam giác. Sau đó tôi lại cho học sinh tự nêu ví dụ về hình tam giác trong thực tế như: cái ê ke, lá cờ thi đua, biển báo,..
Ví dụ: Để học sinh nắm được cấu tạo số, tôi thường tổ chức hoạt động chia một số que tính thành 2 nhóm một cách tùy ý, mỗi em chủ động chia theo cách của mình. Tập hợp tất cả các cách chia, tôi sẽ có được tất cả các trường hợp cần nắm về cấu tạo số. Có phân tích bằng hành động như vậy, dần dần học sinh mới phân tích thầm trong óc được.
Ví dụ: Khi dạy về Đoạn thẳng:
Tôi yêu cầu mỗi học sinh lấy ra một sợi dây. Tôi sẽ căng thẳng sợi dây của mình rồi yêu cầu cả lớp làm theo.
Sau đó cho cả lớp đồng thanh: “Đây là một đoạn thẳng”
Với cách dạy này 100% học sinh đều được trực tiếp tham gia hoạt động, học sinh dễ hiểu và nhớ lâu hơn.
Tuy nhiên, ta không nên lạm dụng phương pháp này và cần phải chuyển dần, chuyển kịp thời và đúng lúc từ dạng trực quan này sang dạng trực quan khác với mức độ trừu tượng tăng dần.
Ví dụ: Khi cho học sinh giải toán, chẳng hạn loại toán về nhiều hơn, tôi có những minh họa trực quan theo thứ tự như sau:
( ( ( (
* * *
 4
( ( ( ( ( ( (
 * *
 2
 Mức độ 1 Mức độ 2 Mức độ 3
3. Phương pháp thực hành luyện tập: Là phương pháp dạy học thông qua các hoạt động thực hành - luyện tập của học sinh để giúp các em nắm được các kiến thức và kỹ năng mới. Phương pháp này có ưu thế là phát huy được tốt nhất tính độc lập của học sinh, là phương tiện tốt nhất để thực hiện nguyên lí giáo dục.
Phương pháp này được tôi sử dụng thường xuyên. Học sinh được thực hành, luyện tập liên tục. Thông qua hoạt động này mà học sinh luyện tập các kiến thức và kỹ năng cần thiết.
Tuy nhiên cần chú ý là phải chuẩn bị cho việc thực hành, luyện tập một cách chu đáo; động viên cả lớp hoạt động độc lập, mọi học sinh đều tự suy nghĩ, tự tìm biện pháp; nhất thiết phải tổng kết hoạt động độc lập của học sinh, điều chỉnh sai lầm, có sự bổ sung kiến thức cần thiết; các bài tập cần đi từ đơn giản đến phức tạp, cuối cùng nên có những bài tổng hợp để mức độ luyện tập được nâng cao dần; cần thay đổi hình thức luyện tập để gây hứng thú học tập cho học sinh; cần luyện tập nhiều, nhưng số lượng bài tập cần vừa phải, luyện tập ở lớp là chính.
4. Phương pháp dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề:
Đây cũng là một phương pháp dạy học phát huy được tính tích cực của học sinh. Tôi sử dụng phương pháp này khi hình thành kiến thức mới, khi củng cố rèn luyện kỹ năng toán và khi vận dụng kiến thức.
Ví dụ 1: Hình thành cách so sánh độ dài: Tôi đặt vấn đề: Đối với bút, thước làm thế nào để biết cái nào dài hơn? Học sinh sẽ phát hiện phương pháp: so sánh độ dài các đồ vật cụ thể như thước và bút chì một cách trực tiếp. Tôi đặt vấn đề so sánh độ dài của hai vật cố định xa nhau không dời được, học sinh phải làm thế nào? Học sinh phải suy nghĩ và đề xuất phương pháp mới - so sánh với độ dài của một đối tượng thứ ba, sử dụng đơn vị đo.
Ví dụ 2: Với lớp 1, bài tập dạng dưới đây có tính vấn đề:
2 = 1 + 	8 =  + 3
6 = 4 + 	10 = .+ 1
5. Phương pháp dạy học kiến tạo:
Đây là một phương pháp dạy học tích cực. Tôi sử dụng phương pháp này khi có thể bởi vì với phương pháp này các em sẽ thích tự học, tự khám phá – phát hiện và giải qyết vấn đề.
6. Phương pháp kiểm tra, đánh giá kết quả học tập:
Để đánh giá học sinh tôi sử dụng các hình thức đánh giá (viết, vấn đáp) Học sinh cũng có thể tự đánh giá kết quả học tập của mình, của bạn.
Để kiểm tra kiến thức học sinh nắm được tôi sử dụng phiếu kiểm tra định kỳ và thường xuyên. Bài kiểm tra cần ra đề theo đúng trình độ chuẩn, từ dễ đến khó, đủ các dạng bài đại diện cho những nội dung cơ bản của chương trình, dễ chấm điểm và cộng điểm, mọi học sinh phát triển bình thường đều làm được bài nhưng không dễ dàng đạt điểm 10, phân loại chính xác trình độ học sinh. Không cho học sinh làm các bài có nội dung ngoài chương trình Toán 1.
Sau đây là ví dụ về đề kiểm tra cuối học kì I của tôi: 
Viết: ( 1điểm)
a) Theo mẫu: 
 1 . 
 . 
b) Cách đọc số: 
6: sáu 3: .. 9:  5:  7: 
Tính: (2 đểm)
+5	 +6 - 10 - 3 
 5	 3 4 0
3. Tính : (1,5 điểm)
3 + 7 - 6 =	5 + 4 - 8 =	 4 + 3 + 3 =
4. (1 điểm)
 > < =
	 9 	 5 + 5 4 + 4 5 +3
	 2 + 6	 3 + 2 6 6 - 1
5.Hình? (1 điểm)
 Hình .... Hình  Hình .
6. Viết phép tính thích hợp: (1 điểm)
Có: 8 quả
Cho em: 3 quả
Còn: quả
7. Số?
	4 + = 6	 10 - = 5
 + 9 = 10 7 - = 7
8. Nối phép cộng với số thích hợp : (1,5 điểm)
10
7
8
3 + 7
9 - 1
2 + 5
Còn đây là ví dụ về đề kiểm tra giữa học kì I của tôi: 
1.Viết số thích hợp vào ô trống: (1 điểm)
0
2
6
10
4
2.Tính: (1,5 điểm)
+5	+1	+2
 0	 3	 3
3. (2 điểm)
>
 <
 =
	38	3.2 + 1	
	62	5.3 + 1
	01	4 1 + 2
4. (1 điểm)
a.Có mấy hình tam giác?	b. Có mấy hình vuông?
5. Viết các số 10, 5, 0, 1: (1 điểm)
a.Theo thứ tự từ bé đến lớn:
b.Theo thứ tự từ lớn đến bé:
6. Nối phép cộng với số thích hợp : (1,5 điểm)
3 + 2
5
3
4
3 + 0
2 + 2
7. Viết phép tính thích hợp: (2 điểm)
?
Ngoài các phương pháp trên tôi cũng sử dụng các phương pháp sau:
* Phương pháp gợi mở vấn đáp:
Tôi thường sử dụng phương pháp vấn đáp để tiến hành gợi mở làm cho không khí lớp học sôi nổi, sinh động, kích thích hứng thú học tập và lòng tự tin của các em. Ngoài ra còn rèn luyện cho các em năng lực diễn đạt sự hiểu biết của mình bằng ngôn ngữ, làm cho các em nắm kiến thức nhanh chóng và sâu sắc.
* Phương pháp thuyết trình:
Phương pháp này tôi sử dụng để trình bày kiến thức mới, giải toán mẫu. Tuy nhiên phương pháp này tôi rất hạn chế sử dụng, chỉ sử dụng khi thật cần thiết: nhịp điệu chậm, phần nội dung thuyết trình ngắn và chiếm khoảng thời gian ngắn nhất trong một tiết học. Khi sử dụng phương pháp này tôi thường kết hợp với các phương pháp khác để học sinh thích thú và hào hứng hoạt động, ví dụ như phương pháp minh họa bằng vật thật, với đàm thoại,
* Phương pháp giảng giải minh họa:
Ở phương pháp này tôi sử dụng để giải thích nội dung toán kết hợp với việc dùng trực quan để hỗ trợ cho việc giải toán giúp học sinh hiểu, nhớ kiến thức, gây hứng thú học tập. Tuy nhiên phương pháp này cũng có mặt hạn chế của nó nên tôi ít sử dụng.
Ngoài ra muốn thực hiện các phương pháp trên có kết quả ngay từ đầu năm tôi đã xác định được cần phải đổi mới cách thiết kế bài dạy, lập kế hoạch bài dạy và xây dựng mục tiêu bài học.
Tôi xác định kế hoạch bài học trong sách giáo viên dù đã được thiết kế chu đáo đến đâu cũng chỉ là phương án dự kiến để tạo thuận lợi cho giáo viên trong việc chuẩn bị dạy học. Một trong những yêu cầu quan trọng của dạy học là rất cần sát với đối tượng. Vì vậy, tôi cần xuất phát từ tình hình thực tiễn của lớp để có những điều chỉnh, thay đổi cho phù hợp với đối tượng học sinh.
Đối với tôi kế hoạch bài dạy rất quan trọng nó giúp tôi tự tin khi lên lớp. Kế hoạch bài dạy theo tôi cần ngắn gọn, dễ sử dụng, dễ bổ sung, dễ điều chỉnh, nêu rõ và đầy đủ các hoạt động dạy học cụ thể.
Mỗi kế hoạch bài dạy của tôi thường có:
Mục tiêu: Tôi dựa vào yêu cầu cần đạt của Chuẩn kiến thức, kỹ năng; dựa vào tình hình thực tế của lớp, địa phương để xác định mục tiêu cho bài.
Đồ dùng dạy học: Đồ dùng dạy học là một thiết bị rất quan trọng trong quá trình chuẩn bị một tiết lên lớp. Lớp học có sinh động, có đạt hiệu quả hay không đòi hỏi người giáo viên và học sinh phải chuẩn bị tốt đồ dùng cho tiết học ấy.
Các hoạt động dạy học chủ yếu: Ở nội dung này cần nêu kế hoạch tổ chức và hướng dẫn từng hoạt động học tập của học sinh theo mục tiêu đã xác định. Cần xác định rõ tên từng loại hoạt động, cách tiến hành các hoạt động đó, dự kiến trình tự các hoạt động
Ví dụ:
Bài: PHÉP TRỪ TRONG PHẠM VI 9
Mục tiêu:
Học sinh:
- Thuộc bảng trừ.
- Biết làm tính trừ trong phạm vi 9.
- Viết được phép tính thích hợp với hình vẽ.
(( Bài tập cần làm: Bài 1; bài 2(cột 1, 2, 3); bài 3( bảng 1); bài 4))
Đồ dùng dạy học:
Sử dụng bộ đồ dùng học Toán lớp 1.
Các mô hình, vật thật phù hợp với nội dung bài học.
Các hoạt động dạy học chủ yếu:
1.Ổn định
2.Kiểm tra bài cũ: Phép cộng trong phạm vi 9
♣ 2 học sinh làm bài tập trên bảng lớp:
4 + 5 =	1 + 8 =
4 + 2 + 3 =	1 + 2 + 6 =
4 + 1 + 4 =	1 + 5 + 3 =
♣ Chấm vở bài tập một số học sinh.
♣ Nhận xét, ghi điểm.
♣ Nhận xét bài cũ.
3. Bài mới:
Giới thiệu bài: Ở tiết trước các em đã được học về phép cộng trong phạm vi 9. Hôm nay để các em có thể hiểu và làm được các phép tính trừ trong phạm vi 9. Cô cùng các em đi vào bài mới: Phép trừ trong phạm vi 9.
Giáo viên ghi tựa bài lên bảng, học sinh nhắc lại.
HOẠT ĐỘNG CỦA GIÁO VIÊN
HOẠT ĐỘNG CỦA HỌC SINH
ÓHoạt động 1: Thành lập và ghi nhớ bảng trừ trong phạm vi 9:
* Thành lập 9 – 1 = 8 và 9 – 8 = 1
-Giáo viên hướng dẫn học sinh quan sát vật thật để nêu thành bài toán. -Giáo viên hỏi: “Tất cả có mấy cái kéo?”
- Giáo viên hỏi :” Có mấy cái kéo ở phần bên phải ?”
- Giáo viên: “Hỏi còn lại có mấy cái kéo ở phần bên trái ?”
- Giáo viên yêu cầu học sinh nêu lại bài toán.
- Giáo viên gọi học sinh nêu câu trả lời và hướng dẫn học sinh nêu đầy đủ.
-GV: “ 9 bớt 1 còn mấy?”
- Giáo viên nêu: “Ta viết 9 bớt 1 còn 8 như sau”.
GV viết 9 – 1 = 8
- Giáo viên chỉ vào phép tính 9 – 1 = , hướng dẫn học sinh điền.
- Giáo viên yêu cầu học sinh đọc lại.
- Giáo viên hỏi học sinh: “9 – 1 = mấy ?”
- Giáo viên hướng dẫn học sinh tự tìm kết quả phép trừ: 9 – 8 = 1 thông qua phép trừ 9 – 1 = 8.
* Thành lập phép trừ 9 – 2 = 7 và 9 – 7 = 2 tương tự như đối với 9 – 1 = 8 và 9 – 8 = 1
* Thành lập phép trừ 9 – 3 = 6 và 9 – 6 = 3 tương tự như đối với 9 – 2 = 7 và 9 – 7 = 2
* Thành lập phép trừ 9 – 4 = 5 và 9 – 5 = 4 tương tự như đối với 9 – 3 = 6 và 9 – 6 = 3
- Giáo viên: “Chúng ta vừa lập xong bảng trừ trong phạm vi mấy?”
- Giáo viên yêu cầu học sinh đọc các phép tính vừa lập theo thứ tự khác nhau.
- Cho học sinh tái hiện số bị xóa hoặc che lấp:
+ Cho học sinh tái hiện một phần bảng tính.
+ Cho học sinh tái hiện toàn bộ bảng tính: GV bỏ bảng tính đi.
Lớp thư giãn.
ÓHoạt động 2: Hướng dẫn học sinh thực hành làm tính trừ trong phạm vi 9:
(Bài tập 1:- Giáo viên nêu phép tính : 9 – 1 = ?, 9 – 2 = ?, 9 – 3 = ?, 9 – 4 = ?, 9 – 5 = ?, 9 – 6 = ?.
- Giáo viên yêu cầu học sinh làm bảng con, bảng lớp.
- Lưu ý học sinh các số viết phải thẳng cột.
(Bài tập 2 (cột 1, 2, 3) :
- Giáo viên yêu cầu học sinh làm bài vào vở.
- Giáo viên nhận xét.
- Giáo viên: “Trong các phép tính trên có tất cả những số nào? Chúng có đứng ở các vị trí giống nhau không?”
(Bài tập 3 (bảng 1):
- Giáo viên phát phiếu bài tập.
- Giáo viên thu phiếu bài tập.
-Chấm thử, nêu nhận xét.
(Bài tập 4:
- Giáo viên chia lớp thành 2 dãy, mỗi dãy cử 1 học sinh thi viết phép tính tương ứng ( phù hợp với đề toán)
- Giáo viên nhận xét.
(Bài tập dành cho học sinh khá, giỏi:
 - = 9 9 - = 6
- 7 = 2 9 -.= 9
-Học sinh quan sát hình vẽ và nêu: “Tất cả có 9 cái kéo”.
- Học sinh: “ Có 1 cái kéo ở phần bên phải”.
- Học sinh: “Còn lại 8 cái kéo ở phần bên trái”.
- Học sinh nêu:” 9 cái kéo bớt đi 1 cái kéo còn 8 cái kéo”.
- Học sinh: 9 bớt 1 còn 8.
- Học sinh đọc: 9 trừ 1 bằng 8.
- Học sinh tự điền số 8 vào kết quả của phép tính 9 – 1 =.
- Học sinh đọc lại: 9 – 1 = 8
- Học sinh tự tìm ra kết quả phép trừ 9 – 8 = 1
-Ở phần này học sinh tự quan sát hình vẽ và nêu bài toán.
- Học sinh: “Chúng ta vừa lập xong bảng trừ trong phạm vi 9”.
- Học sinh đọc.
-Học sinh nêu toàn bộ phép trừ kể cả số bị che lấp( hoặc bị xóa).
-Học sinh thực hiện theo yêu cầu của giáo viên.
- Học sinh nêu nhanh kết quả: 9 – 1 = 8, 9 – 2 = 7, 9 – 3 = 6, 9 – 4 = 5, 9 – 5 = 4, 9 – 6 = 3.
- 1 học sinh làm bảng lớp, cả lớp làm bảng con:
-
9
-
9
-
9
-
9
7
8
9
0
2
1
0
9
- Học sinh đọc yêu cầu: Tính
- Học sinh tính nhẩm và viết kết quả vào vở.
- 3 học sinh đọc phép tính, kết quả phép tính.
- Học sinh nhận xét từng cột.
- Học sinh rút ra được phép trừ là phép tính ngược lại của phép cộng.
- Học sinh nêu yêu cầu.
- Học sinh làm bài tập.
-1 học sinh sửa bài.
-Lớp nhận xét.
- Học sinh nêu yêu cầu.
- Học sinh quan sát tranh.
- Học sinh tự nêu bài toán.
- Học sinh làm bài 4 thông qua trò chơi.
-Học sinh khá, giỏi làm.
4.Hoạt đông nối tiếp: Học sinh nêu tựa bài
Giáo viên nhận xét tiết học.
Giáo viên giáo dục tư tưởng.
Dặn dò: Chuẩn bị bài sau.
PHẦN IV: KẾT QUẢ
Qua quá trình thực hiện một số phương pháp giúp HS học tốt môn Toán lớp 1. Đó là tổ chức giờ học như là tổ chức các hoạt động học tập. Học sinh được phát huy tính tích cực chủ động học tập, tự chiếm lĩnh kiến thức và vận dụng được các kiến thức đã học. Tôi nhận thấy các em có sự tiến bộ rõ rệt, hứng thú hơn trong giờ học toán, hăng hái trả lời các câu hỏi của giáo viên, bổ sung câu trả lời của bạn, biết nêu thắc mắc hay đề nghị giải thích những vấn đề chưa đủ rõ, chủ động vận dụng kiến thức, kỹ năng đã học để nhận thức vấn đề mới, tập trung chú ý vào vấn đề đang học, kiên trì thực hiện các bài tập, không nản trước những khó khăn. Các em nắm kiến thức một cách sâu sắc và có ý thức. Kết quả học tập của các em có sự tiến bộ rõ rệt. Việc học tốt môn Toán cũng giúp các em học tốt các môn học khác.
Kết quả học tập môn Toán của học sinh lớp 1 a 2 mà tôi phụ trách đạt được như sau:
Thời gian
HỌC LỰC MÔN TOÁN
TS
HS
G
K
TB
Y
TS
%
TS
%
TS
%
TS
%
Cuối HKI
25
8
32%
6
24%
10
40%
1
4%
Cuối năm 2012-2013
25
10
40%
6
24%
9
36%
/
0
Giữa HKI
Năm 2013-2014
24
9
37.5%
9
37.5%
3
12.5%
3
12.5%
PHẦN V: BÀI HỌC KINH NGHIỆM
Để thực hiện một số phương pháp dạy học Toán lớp 1 có hiệu quả tôi rút ra được một số bài học kinh nghiệm sau:
♀ Trước hết người giáo viên phải nắm vững chương trình và sách giáo khoa, hiểu đặc điểm tâm lý học sinh để lựa chọn và sử dụng những phương pháp, phương tiện và hình thức dạy học phù hợp.
♀Giáo viên phải cải tiến không ngừng phương pháp dạy học và giúp học sinh cải tiến phương pháp học.
♀ Giáo viên phải biết dựa vào những tri thức mà học sinh đã có, đã học để hướng dẫn học sinh nâng cao lên một trình độ mới.
♀ GV phải hiểu không có phương pháp nào là không tốt, mỗi phương pháp đều có giá trị riêng của nó. Hiệu quả hay không hiệu quả đều phụ thuộc vào người sử dụng. Nếu các phương pháp dạy học được kết hợp và bổ sung cho nhau thì phương pháp dạy học ấy sẽ phù hợp được với đối tượng học đa dạng, chống sự nhàm chán và tạo ra sự năng động trong cách nghĩ, cách làm của học sinh.
♀ Giáo viên phải biết kết hợp hoạt động cá nhân với hoạt động nhóm và phát huy khả năng của cá nhân.
♀ Tăng cường rèn kỹ năng thực hành cho học sinh.
♀ Sử dụng phương tiện kỹ thuật hiện đại vào dạy học.
♀ Linh hoạt trong ứng xử sư phạm để thích ứng với sự thay đổi của đối tượng và hoàn cảnh.
♀ Luôn kiểm tra và đánh giá kiến thức và kỹ năng đạt được ở học sinh có động viên khuyến khích các em.
♀ Luôn tự tìm tòi, học hỏi rút kinh nghiệm để bồi dưỡng chuyên môn của mình.
♀ Tăng cường thao giảng, dự giờ rút kinh nghiệm, áp dụng những sáng kiến trong giảng dạy.
♀ Thực hiện nhiều phương pháp dạy học cùng với đổi mới cách kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh cũng như cách thiết kế bài dạy.
PHẦN VI: NHỮNG KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT
Một số phương pháp giúp HS học tốt môn toán lớp 1 cần phải được phát huy và thực hiện nó đòi hỏi trình độ chuyên môn của giáo viên còn cần phải được nâng lên để đáp ứng và áp dụng. Vì vậy tôi đề nghị Sở, Phòng GD sẽ thường xuyên tổ chức các lớp đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn và phương pháp dạy học cho giáo viên để bồi dưỡng và nâng cao tay nghề cho GV tiểu học nói chung và GV lớp 1 nói riêng.
Ngày nay công nghệ thông tin ngày càng phát triển có tác dụng rất tích cực trong việc giảng dạy, trong khi đó đa số giáo viên còn chưa được đào tạo về vấn đề này. Tôi mong muốn sắp tới giáo viên sẽ được đào tạo bài bản và rộng rãi về sử dụng máy tính, máy chiếu, soạn giáo án điện tử,
PHẦN VII: KẾT LUẬN
Trong quá trình giảng dạy một số năm học ở lớp 1 bản thân tôi đã có điều kiện để học tập, tham khảo các phương pháp mới các đồng nghiệp. Đây là một vấn đề đòi hỏi phải có sự phối hợp giữa giáo viên, nhà trường, gia đình và chính bản thân của học sinh trong suốt quá trình học tập.
Vì sự nhận thức của bản thân còn nhiều hạn chế nên trong quá trình viết bài còn nhiều thiếu sót. Vậy rất mong các đồng nghiệp sẽ giúp đỡ đóng góp ý kiến cho tôi để đề tài đạt hiệu quả cao nhất.
Thạnh Phú, ngày 29 tháng 10 năm 2013
Người viết
 	 Dương Thị Số Thone
PHẦN NHẬN XÉT ĐÁNH GIÁ CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC TRƯỜNG TIỂU HỌC THẠNH PHÚ 3
PHẦN NHẬN XÉT ĐÁNH GIÁ CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC
PHÒNG GIÁO DỤC- ĐÀO TẠO HUYỆN MỸ XUYÊN
	PHẦN NHẬN XÉT ĐÁNH GIÁ CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC
SỞ GIÁO DỤC – ĐÀO TẠO SÓC TRĂNG
MỤC LỤC
PHẦN I
ĐẶT VẤN ĐỀ
TRANG 
1
PHẦN II
ĐẶC ĐIỂM TÌNH HÌNH
TRANG
3
PHẦN III
CÁC BIỆN PHÁP THỰC HIỆN
TRANG
5
PHẦN IV
KẾT QUẢ
TRANG
19
PHẦN V
BÀI HỌC KINH NGHIỆM
TRANG
20
PHẦN VI
NHỮNG KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT
TRANG
21
PHẦN VII
KẾT LUẬN
TRANG
22
PHẦN IV	GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ	 TRANG	
PHẦN V	KẾT QUẢ	 TRANG
PHẦN VI	BÀI HỌC KINH NGHIỆM	TRANG
PHẦN VII	NHỮNG KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT	TRANG
PHẦN VIII	KẾT LUẬN	 TRANG
Nội dung môn Toán lớp 1 gồm có 4 tuyến kiến thức chính là: số học, đại lượng và đo đại lượng, yếu tố hình học, giải toán có lời văn.
Dạy học các mạch kiến thức trên, tôi đều cố gắng theo tinh thần đổi mới phương pháp dạy học ở Tiểu học. Đó là phải tổ chức giờ học như là tổ chức các hoạt động học tập.
Trong sách giáo khoa Toán 1 có các phiếu học và phiếu thực hành.
Phiếu học của Toán 1 gồm phần bài học và phần các bài thực hành có ghi theo thứ tự bắt đầu từ số 1. Phần bài học trong mỗi phiếu của Toán 1 thường không nêu các kiến thức có sẵn mà thường chỉ nêu các tình huống( bằng hình ảnh) để học sinh hoạt động và tự phát hiện ra kiến thức mới theo hướng dẫn của giáo viên.
Phần thực hành trong phiếu học là các bài luyện tập để củng cố kiến thức mới học. Phiếu thực hành bao gồm các bài tập, các câu hỏi sắp xếp theo thứ tự từ dễ đến khó dần. Các bài tập mới hoặc các bài tập khó thường đặt ở cuối phiếu.
Để dạy tốt phần bài học tôi thường giúp học sinh tự phát hiện và giải quyết vấn đề của bài học: tôi sẽ hướng dẫn học sinh quan sát hình vẽ, tranh, ảnh,...trong sách hoặc sử dụng đồ dùng thích hợp để tự học sinh nêu ra vấn đề cần giải quyết rồi tự học sinh tham gia giải quyết vấn đề. Thời gian đầu tôi sẽ hướng dẫn học sinh nêu và giải quyết vấn đề. Khi học sinh đã quen tôi yêu cầu học sinh tự nêu và tự giải quyết vấn đề. Sau khi học sinh đã phát hiện và giải quyết vấn đề thì tùy theo loại bài học mà tôi hình thành kiến thức mới hoặc giúp các em tự nêu, tự giải quyết vấn đề, tự xây dựng kiến thức mới. Sau đó tôi giúp cho học sinh ghi nhớ kiến thức mới. Dạy phần bài mới tôi luôn chú ý đến việc thiết lập mối quan hệ giữa kiến thức mới và kiến thức đã học. Trong quá trình dạy học Toán tôi cũng luôn 

Tài liệu đính kèm:

  • docsang kien kinh nghiem.doc