Đề tài Tìm hiểu truyền thống lịch sử 80 năm của MTDTTNVN và 50 năm MTDTGPMN

Câu 1: Vị trí Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong hệ thống chính trị được xác định như thế nào ?

Trả lời: "Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể thành viên có vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp đaị đoàn kết toàn dân, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc." Đó là củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, tạo nên sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong nhân dân, thắt chặt mật thiết giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước để thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới.

 Luật Mặt trân Tổ quốc Việt Nam, tại Chương I, Điều 1 “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong hệ thống chính trị” đã quy định:

 Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, các tầng lớp xã hội, các dân tộc, các tôn giáo và người Việt Nam định cư ở nước ngoài.

 Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là một bộ phận của hệ thống chính trị của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, do Đảng Cộng Sản Việt Nam lãnh đạo, là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, nơi thể hiện ý chí, nguyện vọng, tập hợp khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, nơi hiệp thương, phân phối và thống nhất hành động của các thành viên, góp phần giữ vững độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

 Công cuộc đổi mới toàn diện đất nước do Đảng lãnh đạo đã mở ra cơ hội để các thành viên trong hệ thống chính trị các cấp, trong đó có Mặt trận Tổ quốc VN từng bước tham gia xây dựng đời sống dân chủ và phát huy dân chủ, tạo sự đồng thuận xã hội để góp phần vào sự vững mạnh của Đảng và chính quyền nhân dân.

 Đại đoàn kết dân tộc là một nhân tố có ý nghĩa quan trọng trong suốt chiều dài lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của nhân dân ta. Chính nhân tố đại đoàn kết đã tạo nguồn lực to lớn tiềm ẩn trong nhân dân làm nên sức mạnh vĩ đại của dân tộc để vượt qua những thử thách khắc nghiệt của lịch sử nước nhà.

 Cách động viên sức mạnh dân tộc ở mỗi thời kỳ có khác nhau, phụ thuộc vào yêu cầu của đất nước trong mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể. Xây dựng được và phát huy tốt sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong phát triển và bảo vệ đất nước là một vấn đề lớn lao, mang tính hệ thống, đồng bộ, nhất là trong giai đoạn hiện nay.

 Ngay sau khi thành lập, Đảng ta đã nhận thức sâu sắc rằng: “giai cấp vô sản lãnh đạo cuộc cách mạng tư sản dân quyền ở Đông Dương mà không tổ chức được toàn dân lại thành một lực lượng thật rộng, thật kín thì cuộc cách mạng cũng khó thành công”.

 

doc 25 trang Người đăng honganh Lượt xem 1080Lượt tải 0 Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Đề tài Tìm hiểu truyền thống lịch sử 80 năm của MTDTTNVN và 50 năm MTDTGPMN", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
: “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, các tầng lớp xã hội, các dân tộc, các tôn giáo và người Việt Nam định cư ở nước ngoài”.
	Như vậy, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã bao hàm trong nó các tổ chức thành viên. Ở mỗi cấp Mặt trận, tùy theo điều kiện, yêu cầu mà số lượng các thành viên mặt trận sẽ khác nhau. Trong thực tế có thể dùng đầy đủ cụm từ (Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là bộ phận của hệ thống chính trị) cũng có thể nói tắt, viết tắt bằng cụm từ “Mặt trận” mà ý nghĩa nội dung không thay đổi (Mặt trận là bộ phận của hệ thống chính trị) 
	Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam:
	Điều lệ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam quy định. Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ở mỗi cấp là cơ quan chấp hành giữa hai kỳ đại hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp.
	Ở nước ta Mặt trận Tổ quốc Việt Nam được tổ chức theo 4 cấp hành chính: Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ; Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp tỉnh; Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp huyện, quận, thị xã; Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã, phường, thị trấn. Dưới cấp xã, phường, thị trấn là khu dân cư có Ban công tác Mặt trận
	Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp nào, do đại hội đại biểu Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp đó hiệp thương thỏa thuận và quyết định theo cơ cấu thành phần quy định và hướng dẫn của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp trên trực tiếp.
	Cơ quan Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam:
	Cơ quan Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ở mỗi cấp là bộ máy chuyên trách tham mưu giúp việc của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp đó. Đối với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (toàn quốc) có cơ quan Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam bao gồm một số ban tham mưu giúp việc. Đối với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh, thành phố bao gồm một số phòng ban giúp việc. Đến cấp huyện, thị xã và xã, phường, thị trấn thì bộ máy được bố trí gọn nhẹ không có cơ cấu phòng ban chỉ bố trí thường trực và một số chuyên viên, cán bộ theo dõi phụ trách công việc
Câu 5: Dân chủ xã hội chủ nghĩa và vai trò Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thực hiện phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa như thế nào? 
	Trả lời: Chế độ xã hội chủ nghĩa tạo nên những hình thức dân chủ hoàn toàn mới, phù hợp với điều kiện kinh tế của xã hội, làm cho nền dân chủ đó ngày càng phong phú, đa dạng. Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, bên cạnh nền dân chủ có tính chất dân cử, những hình thức dân chủ trực tiếp khác nhau cũng được phát triển hài hòa, thể hiện trong các hoạt động của những tổ chức xã hội, tổ chức dân lập, trong hệ thống kiểm soát của nhân dân.
	Dân chủ xã hội chủ nghĩa ghi nhận toàn bộ những quyền tự do cá nhân, tự do ngôn luận, tự do báo chí, hội họp, đi lại, tự do tín ngưỡng, quyền bất khả xâm phạm thân thể và nhà ở, quyền nghỉ ngơi, học hành. Nhà nước xã hội chủ nghĩa bảo đảm cho tất cả công dân được hưởng những quyền đó. Nhà nước xã hội chủ nghĩa tạo cho công dân những khả năng rộng rãi để bày tỏ nguyện vọng và trình bày những ý kiến của mình về những vấn đề của đời sống xã hội.
	Việc xác lập nền dân chủ ở Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng, là phù hợp với thực tiễn của đời sống xã hội. Để có dân chủ xã hội chủ nghĩa trong điều kiện một đảng cầm quyền, cần có sự kết hợp chặt chẽ giữa dân chủ ở cấp Trung ương với việc thực hiện dân chủ ở cơ sở; trong đó, dân chủ ở cơ sở có tính chất nền tảng, dân chủ ở cấp Trung ương có tính chất quyết định.
	Dân chủ ở nước ta, trước hết và chủ yếu được thực hiện bằng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa do nhân dân làm chủ. Hệ thống chính trị đã động viên sự tham gia của công dân vào công việc của Nhà nước ở cơ sở, trong các hoạt động đa dạng nhằm thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp của công dân, giữ gìn an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội. Bài học lớn về dân chủ là phát huy tối đa nội lực và ý thức tự lực tự cường của nhân dân; vai trò quan trọng của nhân dân trong việc kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ quan đảng và nhà nước; dân chủ đi đôi với việc chấp hành pháp luật, kỷ cương.
	Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên cần mở rộng dân chủ ở cơ sở. Như chúng ta đã biết, cơ sở là nền tảng của xã hội, là nơi trực tiếp thực hiện những chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước. Đó chính là nơi quyền làm chủ của nhân dân được thực hiện một cách trực tiếp, đầy đủ và rộng rãi nhất. 
	Với tư cách là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện rộng lớn nhất, một bộ phận của hệ thống chính trị nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, do Đảng lãnh đạo. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ngày nay càng có vai trò quan trọng góp phần thực hiện dân chủ xã hội chủ nghiaxa, tăng cường mối liên hệ mật thiết giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước, phát huy tinh thần yêu nước, truyền thống đại đoàn kết toàn dân. 
	Để làm được điều đó, điều đầu tiên và thường xuyên là phải tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục để nhân dân nhận rõ và phát huy chế độ dân chủ đại diện, thực hiện có hiệu quả dân chủ trực tiếp để "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra", tạo điều kiện cho mọi người dân được tham gia quyết định những công việc quan trọng, gắn liền với lợi ích chính đáng và hợp pháp của người dân. Mở rộng các hình thức tự quản trong nhân dân trong khuôn khổ pháp luật để dân bàn bạc và thực hiện nhiệm vụ xây dựng các hương ước, quy tắc ứng xử, quy ước làng văn hoá, đơn vị văn hoá. Thực hiện dân chủ phải phù hợp với Hiến pháp, pháp luật, gắn liền với kỷ cương, kỷ luật. Xây dựng cộng đồng có lẽ sống trung thực, lối sống cao thượng và nếp sống văn minh, tức là sống và làm việc theo pháp luật là cơ sở đảm bảo cho mọi cá nhân được tư do, phát huy quyền làm chủ của mình. Không thể có dân chủ xã hội chủ nghĩa khi tuyệt đối hoá tự do cá nhân, đối lập với lợi ích và quyền làm chủ của toàn thể nhân dân và toàn thể cộng đồng. Đồng thời, phải đấu tranh làm thất bại mọi mưu tan lợi dụng dân chủ, tự do tôn giáo, nhân quyền nhằm phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân, xâm hại đến lợi ích của Tổ quốc.
Chủ tịch UBTƯ MTTQ Việt Nam Phạm Thế Duyệt tham dự lễ hội tại Sóc Trăng
	Mặt khác, Mặt trận các cấp phải tạo các điều kiện để các đại biểu dân cử, cán bộ, công chức Nhà nước đi sâu, đi sát, lắng nghe, nắm bắt, tập hợp ý kiến, nguyện vọng chính đáng của dân để đề đạt, phản ánh với chính quyền, tham mưu cho các cấp ủy Đảng có biện pháp xử lý những kiến nghị, khiếu nại của dân, tập trung làm tốt công tác hoà giải mẫu thuẫn trong cộng đồng dân cư. Đồng thời, tạo điều kiện cho dân giám sát cán bộ, giám sát hoạt động điều hành, quản lý của chính quyền các cấp. Chống sự áp đặt, mất dân chủ, không tôn trọng quyền làm chủ chính đáng của dân. Có như vây, chúng ta mới thực sự "lấy dân làm gốc", mới "an dân" để xây dựng quê hương, đất nước.
	Đi đôi với thực hiện quy chế dân chủ là đẩy mạnh công tác cải cách hành chính, tăng cường chỉnh đốn kỷ cương, kỷ luật trong bộ máy hành chính và xã hội, trong đó, tập trung mũi nhọn đấu tranh chống tham nhũng, tệ sách nhiễu dân, coi thường kỷ luật và tắc trách trong công việc. Thực hiện nghiêm quy chế công chức và chế độ công vụ gắn với đề cao trách nhiệm và đạo đức cán bộ, công chức trong việc thực thi nhiệm vụ và phục vụ nhân dân. Mọi cán bộ, đảng viên và đặc biệt là cán bộ làm công tác Mặt trận phải khắc phục được tình trạng ngại đi cơ sở, tình trạng "bàn giấy", quan liêu, xa dân, ngại tiếp xúc với dân, không muốn đối thoại với dân; tập trung hướng mạnh về cơ sở, bám sát thực tiễn, nói đi đôi với làm, bằng phương châm "thiết thực, mạnh mẽ, cụ thể, sát dân". 
	Vấn đề cuối cùng, để hoàn những nhiệm vụ cao cả và trọng trách của mình, Mặt trận Tổ quốc các cấp cần tiếp tục nâng cao năng lực, đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, khắc phục tình trạng hành chính hoá trong tổ chức và cơ chế hoạt động. Thực hiện nguyên tắc: kiên trì giáo dục, thuyết phục, đôi khi phải biết chờ đợi nhằm khuyến khích, động viên các tầng lớp nhân dân tham gia thực hiện đường lối của Đảng, chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước, Mặt trận phải là cầu nối giữa Đảng và nhân dân, là nơi nhân dân tin tưởng bày tỏ ý kiến, nguyện vọng, đóng góp trí tuệ, sáng kiến với Đảng, Nhà nước và là chỗ dựa để nhân dân tham gia đấu tranh với những hành vi và luận điệu sai trái nhằm bảo vệ sự thống nhất của cộng đồng và lợi ích chính đáng của mọi người dân. Đồng thời tăng cường củng cố, kiện toàn, có kế hoạch cụ thể bồi dưỡng trình độ lý luận chính trị và chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ mặt trận các cấp, đặc biệt là ban công tác mặt trận ở địa bàn dân cư phải đến từng hộ gia đình, tìm hiểu hoàn cảnh cụ thể của từng người dân, nói cho dân nghe, đồng thời phải nghe dân nói; làm cho mọi người dân trở thành cán bộ dân vận, vận động lẫn nhau, tạo ra mạng lưới dân vận rộng khắp, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ mới, không ngừng đưa sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân lên tầm cao mới và chiều sâu mới.
Câu 6: Đảng Cộng sản Việt Nam vừa là thành viên Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, vừa lãnh đạo Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Bạn hãy phân tích tại sao?
	Trả lời: Luận điểm “Đảng Cộng sản Việt Nam vừa là thành viên Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, vừa lãnh đạo Mặt trận Tổ quốc Việt Nam” được nhiều văn bản của Đảng, Nhà nước, Mặt trận ghi nhận, đặc biệt được ghi vào Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta (được Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng Cộng sản Việt Nam thông qua năm 1991): Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là liên minh chính trị của các đoàn thể nhân dân và các cá nhân tiêu biểu của các giai cấp và tầng lớp xã hội, các dân tộc, các tôn giáo, là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân. Đảng Cộng sản Việt Nam vừa là thành viên, vừa là người lãnh đạo Mặt trận”. 
	Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiền phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam. Chính vì vậy, Đảng là lực lượng lãnh đạo toàn xã hội, lãnh đạo hệ thống chính trị, trong đó có Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là bộ phận của hệ thống chính trị nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện tập trung đông đảo nhất của các giai cấp, các dân tộc, các tôn giáo, các lực lượng xã hội của dân tộc, tạo thành sức mạnh, động lực thực hiện đường lối của Đảng, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. 
	Với ý nghĩa như vậy, Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam muốn lãnh đạo, thu phục được đại đa số nhân dân trong xã hội, Đảng tham gia làm thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Khi bàn về công tác của Mặt trận Việt Minh, Đảng ta chủ trương: “Đảng ta cũng là một bộ phận trong Mặt trận phản đế Đông Dương; bộ phận trung kiên và lãnh đạo”, “Đảng uỷ cấp nào phải cử đại biểu vào Uỷ ban Việt Minh cấp ấy”. Trong điều kiện nước ta chỉ có duy nhất một Đảng cầm quyền lãnh đạo cách mạng, việc có Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Đảng tham gia làm thành viên Mặt trận Tổ quốc Việt Nam càng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Có thể nói, đây là một sự sáng tạo, độc đáo riêng có của cách mạng Việt Nam, với vai trò “kép” Đảng vừa là thành viên Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, vừa lãnh đạo Mặt trận Tổ quốc Việt Nam”. 
	Đảng ta là Đảng cầm quyền lãnh đạo toàn xã hội, lãnh đạo hệ thống chính trị và toàn dân tộc nói chung. Đảng lãnh đạo thông qua việc đề ra Cương lĩnh, chiến lược, đường lối, chủ trương trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thực hiện chức năng, nhiệm vụ, chương trình hành động của mình cũng là thực hiện Cương lĩnh, đường lối, chủ trương của Đảng. 
	Để thực hiện được các yêu cầu nói trên, phương thức lãnh đạo của Đảng là thông qua công tác chính trị, tư tưởng; xây dựng tổ chức, bộ máy, cán bộ; công tác kiểm tra và vai trò tiên phong, gương mẫu của tổ chức Đảng và đội ngũ đảng viên trong toàn xã hội và ngay chính trong hệ thống tổ chức Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. 
            Với tư cách là thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Đảng bình đảng như mọi thành viên khác của Mặt trận. Đảng gia nhập là thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp là hoàn toàn trên cơ sở tự nguyện, tán thành Điều lệ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, có trách nhiệm, nghĩa vụ thực hiện nhiệm vụ và Chương trình hành động của Mặt trận. Hơn thế, còn là  sự đòi hỏi cao đối với Đảng, do Đảng không chỉ là thành viên Mặt trận Tổ quốc Việt Nam mà còn lãnh đạo Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Để lãnh đạo Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Đảng phải đổi mới phương thức lãnh đạo của mình đối với Mặt trận và các đoàn thể nhân dân, tạo điều kiện để Mặt trận và các đoàn thể xác định đúng mục tiêu, nội dung và phương thức hoạt động, đồng thời phát huy tính tự chủ, sáng tạo trong xây dựng, đổi mới và hoạt động của mình.
	Quan điểm “Đảng Cộng sản Việt Nam vừa là thành viên Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, vừa là lãnh đạo Mặt trận Tổ quốc Việt Nam” được nhiều văn bản của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ghi nhận đặc biệt là được ghi vào cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta (Được Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng Cộng sản Việt Nam thông qua năm 1991. “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là liên minh chính trị của các đoàn thể nhân dân và của cá nhân tiêu biểu của các giai cấp và tầng lớp xã hội, các dân tộc, các tôn giáo, là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân. Đảng Cộng sản Việt Nam vừa là thành viên, vừa là người lãnh đạo Mặt trận”
	Để lãnh đạo Mặt trận, Đảng phải ở trong Mặt trận, Đảng thực hiện vai trò lãnh đạo bằng cách đề ra đường lối, chủ trương, chính sách đúng đắn, đáp ứng yêu cầu nguyện vọng và lợi íh chính đáng của các tầng lớp nhân dân: Đảng tiến hành công tác tuyên truyền, vận động, thuyết phục, tổ chức kiểm tra và bằng sự gương mẫu của Đảng viên. Thực tiễn lịch sử từ ngày thành lập Mặt trận đến nay đã chứng tỏ các thành viên tham gia Mặt trận đều tự giác thừa nhận vai trò lãnh đạo của Đảng.
	Đảng Cộng sản Việt Nam vừa là thành viên của Mặt trận, vừa là lực lượng lãnh đạo, xây dựng khối đoàn kết. Đảng ta ra đời trong bão táp đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân và của dân tộc. Đảng gồm những người tiên tiến, ưu tú của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động, của các dân tộc.
	Đảng muốn hoàn thành nhiệm vụ của mình phải gắn bó máu thịt với nhân dân. Đảng là tổ chức chính trị cao nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất là bộ tham mưu của giai cấp công nhân và của cả dân tộc. 
	Đảng lãnh đạo Mặt trận và là một thành viên của Mặt trận dân tộc thống nhất. Chủ tịch Hồ Chí Minh phân tích cặn kẽ: "Đảng không thể đòi hỏi Mặt trận thừa nhận quyền lãnh đạo của mình, mà phải tỏ ra là một bộ phận trung thành nhất, hoạt động nhất và chân thực nhất. Chỉ trong đấu tranh và công tác hằng ngày, khi quần chúng thừa nhận rộng rãi chính sách đúng đắn và năng lực lãnh đạo của Đảng, thì Đảng mới giành được địa vị lãnh đạo".
Tuyên truyền về Đại hội đại biểu Toàn quốc lần thứ X của Đảng
	Đảng lãnh đạo Mặt trận bằng việc xác định chính sách đúng của Mặt trận. Chính sách đúng là cơ sở, là căn cứ tập hợp đoàn kết nhân dân. Phương pháp hoạt động là vận động, giáo dục, thuyết phục, nêu gương, lấy lòng chân thành để đối xử, cảm hóa, khêu gợi tinh thần tự giác, tự nguyện của nhân dân. Tuyệt đối không được gò ép, quan liêu, mệnh lệnh với dân.
	Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là bộ phận của hệ thống ấy. Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng, chịu sự giám sát của nhân dân, hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
	Để đảm đương được vai trò lãnh đạo, Đảng phải vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức; thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, ra sức nâng cao trình độ trí tuệ, năng lực lãnh đạo. Giữ vững truyền thống đoàn kết thống nhất trong Đảng, bảo đảm đầy đủ dân chủ và kỷ luật trong sinh hoạt Đảng. Thường xuyên tự phê bình và phê bình, đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa cơ hội và mọi hành động chia rẽ, bè phái. Đảng chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên trong sạch, có phẩm chất, năng lực, có sức chiến đấu cao; quan tâm bồi dưỡng, đào tạo lớp người kế tục sự nghiệp cách mạng của Đảng và của nhân dân.
Câu 7: Thế nào là đại đoàn kết toàn dân, đại đoàn kết dân tộc và đại đoàn kết toàn dân tộc?
	Trả lời: Hiện nay những cụm từ trên đã và đang được dùng phổ biến trong các văn kiện của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, trong sách báo, trong các bài phát biểu của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
	Về cơ bản, những cụm từ trên có nội dung giống nhau là tương đối đồng nhất và có cùng bản chất. Thuy nhiên trong những trường hợp, bối cảnh khác nhau nó có thể được sử dụng khác nhau. Từ đại đoàn kết toàn dân đến đại đoàn kết dân tộc và đại đoàn kết toàn dân tộc còn thể hiện quá trình phát triển quan điêm, nhận thức của Đảng ta về vấn đề đoàn kết.
	Đại đoàn kết toàn dân được sử dụng khi muốn nhấn mạnh đến vai trò cụ thể của công dân, người dân . Nghĩa là đề cập đến tính xã hội rộng rãi bao gồm mọi người dân đang sinh sống và làm ăn trên đất nước Việt Nam. Như trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội do Đại hội VII của Đảng (1991) đề ra viết: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân có vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, chăm lo lợi ích của các đoàn viên, hội viên, thực hành dân chủ và đổi mới xã hội, giáo dục lý tưởng và đạo đức cách mạng, quyền và nghĩa vụ công dân, thắt chặt mối liên hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân.
	Khi nói đại đoàn kết dân tộc cũng không phải ngoài nội dung của đại đoàn kết toàn dân, nhưng có ý đề cập chung và nhấn mạnh đến mọi dân tộc thiểu số, dân tộc đa số đoàn kết với nhau, cùng với người Việt Nam ở trong nước và người Việt Nam ở nước ngoài theo một cộng đồng, một quốc gia dân tộc thống nhất.
	Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta viết: “Không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết, đoàn kết toàn Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế là truyền thống vô cùng quý báu của dân tộc ta. Cũng với ý nghĩa trên, báo cáo chính trị của BCH Trung ương Đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng viết: Trong thời kỳ mới của công cuộc xây dựng đất nước, nhân dân ta càng có điều kiện mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, lây liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng.
	Tư tưởng đại đoàn kết toàn dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một tư tưởng cơ bản, nhất quán và xuyên suốt, là chiến lược tập hợp lực lượng đấu tranh với kẻ thù dân tộc và giai cấp trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của Người. Người đã sử dụng khoảng 2.000 lần cụm từ "đoàn kết", "đại đoàn kết" trong các văn bản viết. Người luôn luôn nhận thức đại đoàn kết toàn dân tộc là vấn đề sống còn, quyết định sự thành công của cách mạng.
	Sau khi giành được độc lập dân tộc, tại nhiều hội nghị, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn nhấn mạnh sức mạnh của đoàn kết: "Đoàn kết là sức mạnh, đoàn kết là thắng lợi".
"Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết,
Thành công, thành công, đại thành công!"
	Năm 1951, Hồ Chí Minh thay mặt Đảng tuyên bố trước toàn thể dân tộc nhân buổi ra mắt Đảng Lao động Việt Nam: "Mục đích của Đảng Lao động Việt Nam có thể gồm trong 8 chữ là: Đoàn kết toàn dân, phụng sự Tổ quốc". Như vậy, đoàn kết toàn dân là một đường lối lãnh đạo của Đảng. Không dừng lại ở việc xác định đại đoàn kết là mục tiêu, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn khẳng định nhiệm vụ của toàn Đảng là giữ gìn sự đoàn kết. Trong Di chúc, Người dặn lại chúng ta "Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình".
Lễ khai mạc Đại hội đại biểu toàn quốc các dân tộc thiểu số Việt Nam lần thứ I
	Dân tộc Việt Nam được hiểu là mỗi người dân Việt Nam đang sinh sống, làm ăn ở Việt Nam và những người Việt sinh sống, làm ăn ở nước ngoài có gốc gác là người Việt Nam, không phân biệt họ là dân tộc thiểu số hay đa số, họ theo hoặc không theo tín ngưỡng, tôn giáo, không phân biệt họ giàu hay nghèo, họ là nam hay nữ, già hay trẻ. Đại đoàn kết toàn dân tộc có nghĩa là phải tập hợp được mọi người dân vào một mục tiêu chung. Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: "Ta đoàn kết để đấu tranh cho thống nhất và độc lập của Tổ quốc; ta còn phải đoàn kết để xây dựng nước nhà. Ai có tài, có đức, có sức, có lòng phụng sự Tổ quốc và phục vụ nhân dân thì ta đoàn kết với họ".
	Xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân rộng rãi nhưng phải xác định lực lượng nào là nền tảng của khối đại đoàn kết. Người chỉ rõ "Đại đoàn kết tức là trước hết phải đoàn kết đại đa số nhân dân, mà đại đa số nhân dân ta là công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác. Đó là nền gốc của đại đoàn kết".
	Tổ chức thể hiện khối đoàn kết dân tộc chính là Mặt trận Dân tộc thống nhất. Mặt trận là nơi quy tụ mọi tổ chức và cá nhân yêu nước, tập hợp mọi người dân nước Việt trong nước và ngoài nước phấn đấu vì mục tiêu chung là độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc và tự do, hạnh phúc của nhân dân.
	Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên căn dặn mọi người phải khắc phục đoàn kết xuôi chiều, hình thức, đoàn kết thiếu đấu tranh với những mặt chưa tốt. 
	Người viết: "Đoàn kết thật sự nghĩa là mục đích phải nhất trí và lập trường cũng phải nhất trí. Đoàn kết thật sự nghĩa là vừa đoàn kết, vừa đấu tranh, học những cái tốt của nhau, phê bình những cái sai của nhau và phê bình trên lập trường thân ái, vì nước, vì dân". Người cổ vũ mọi người vào Mặt trận Việt Minh: Dân ta phải nhớ chữ đồng: "đồng tình, đồng sức, đồng lòng, đồng minh".
	Mặt trận là tổ chức chính trị to lớn nhất, cách mạng nhất, Đảng lãnh đạo xây dựng Mặt trận Dân tộc thống nhất đồng thời cũng là một thành viên của Mặt trận. Đảng lãnh đạo Mặt trận trước hết bằng việc xác định chính sách Mặt trận đúng đắn. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "Đảng ta có chính sách Mặt trận dân tộc đúng đắn, cho nên 

Tài liệu đính kèm:

  • docbai du thi cua MTTQTAP THE.doc