- Trong quá trình giảng dạy học sinh ở các lớp tiểu học, nhiệm vụ của người giáo viên là phải cung cấp, truyền đạt cho học sinh những kiến thức cơ bản, cần thiết. Riêng lớp Một là đối tượng cần được quan tâm và chú ý nhất. Bỡi vì khi vào học, đa số các em chỉ biết nói chứ không biết đọc, biết viết. Nên khi dạy cho đối tượng nầy giáo viên cần xác định là phải dạy cái gì? Dạy như thế nào? Để hết lớp Một các em đọc đúng chính âm, dọc đúng từ, câu, đoạn văn đoạn thơ và đọc được cả bài văn, bài thơ.
- Xuất phát từ định hướng đổi mới nội dung, phương pháp giảng dạy đồng thời coi trọng cả 4 kĩ năng của môn Tiếng Việt ( nghe, đọc, nói, viết ). Dựa vào hai định hướng trên, giáo viên khối Một chúng tôi nghiên cứu và chú trọng hơn ở 2 kĩ năng đọc và viết. Trong hai kĩ năng trên giáo viên khối Một đặc biệt quan tâm ở kĩ năng đọc nhiều hơn. Vì sao? Vì các em có đọc đúng, chính âm, chính xác thì mới viết đúng. Do đó, người thầy với vai trò là người cung cấp kiến thức chuyển sang người tổ chức hướng dẫn học sinh tự tìm hiểu và tiếp thu kiến thức cơ bản. Trong đó việc dạy học sinh tập đọc là vấn đề chủ yếu, tạo sự chuyển biến mới cho phù hợp với nội dung, chương trình và sách giáo khoa lớp Một . nhằm trang bị cho học sinh vốn kiến thức Tiếng Việt đa dạng, phong phú làm hành trang cho các bậc học cao hơn.
- Tuy nhiên trong giảng dạy vẫn còn một số bất cập giữa giáo viên và học sinh cho nên hiện nay đến hết lớp Một vẫn còn một số học sinh đọc rất chậm, muốn đọc phải đánh vần trước rồi mới đọc và đọc còn sai về cáh phát âm, ngừng nghĩ không đúng chỗ, thậm chí vẫn còn một vài trường hợp khi học xong một bài Tập đọc mà các em vẫn chưa đọc được .Đây chính là vấn đề lo lắng nhất của đội ngũ giáo viên khối Một. Vì vậy nhằm nâng cao chất lượng dạy và học và để giúp các em đọc được tốt hơn. Hôm nay tổ khối Một chọn chuyên đề “ Rèn kĩ năng đọc cho học sinh lớp Một thông qua phân môn Tập đọc”.
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM RÈN KĨ NĂNG ĐỌC CHO HỌC SINH LỚP MỘT THÔNG QUA PHÂN MÔN TẬP ĐỌC A. PHẦN MỞ ĐẦU: I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI: - Trong quá trình giảng dạy học sinh ở các lớp tiểu học, nhiệm vụ của người giáo viên là phải cung cấp, truyền đạt cho học sinh những kiến thức cơ bản, cần thiết. Riêng lớp Một là đối tượng cần được quan tâm và chú ý nhất. Bỡi vì khi vào học, đa số các em chỉ biết nói chứ không biết đọc, biết viết. Nên khi dạy cho đối tượng nầy giáo viên cần xác định là phải dạy cái gì? Dạy như thế nào? Để hết lớp Một các em đọc đúng chính âm, dọc đúng từ, câu, đoạn văn đoạn thơ và đọc được cả bài văn, bài thơ. - Xuất phát từ định hướng đổi mới nội dung, phương pháp giảng dạy đồng thời coi trọng cả 4 kĩ năng của môn Tiếng Việt ( nghe, đọc, nói, viết ). Dựa vào hai định hướng trên, giáo viên khối Một chúng tôi nghiên cứu và chú trọng hơn ở 2 kĩ năng đọc và viết. Trong hai kĩ năng trên giáo viên khối Một đặc biệt quan tâm ở kĩ năng đọc nhiều hơn. Vì sao? Vì các em có đọc đúng, chính âm, chính xác thì mới viết đúng. Do đó, người thầy với vai trò là người cung cấp kiến thức chuyển sang người tổ chức hướng dẫn học sinh tự tìm hiểu và tiếp thu kiến thức cơ bản. Trong đó việc dạy học sinh tập đọc là vấn đề chủ yếu, tạo sự chuyển biến mới cho phù hợp với nội dung, chương trình và sách giáo khoa lớp Một . nhằm trang bị cho học sinh vốn kiến thức Tiếng Việt đa dạng, phong phú làm hành trang cho các bậc học cao hơn. - Tuy nhiên trong giảng dạy vẫn còn một số bất cập giữa giáo viên và học sinh cho nên hiện nay đến hết lớp Một vẫn còn một số học sinh đọc rất chậm, muốn đọc phải đánh vần trước rồi mới đọc và đọc còn sai về cáh phát âm, ngừng nghĩ không đúng chỗ, thậm chí vẫn còn một vài trường hợp khi học xong một bài Tập đọc mà các em vẫn chưa đọc được..Đây chính là vấn đề lo lắng nhất của đội ngũ giáo viên khối Một. Vì vậy nhằm nâng cao chất lượng dạy và học và để giúp các em đọc được tốt hơn. Hôm nay tổ khối Một chọn chuyên đề “ Rèn kĩ năng đọc cho học sinh lớp Một thông qua phân môn Tập đọc”. II. THỰC TRANG HỌC SINH TRƯỜNG TIỂU HỌC AN HÒA TÂY 2: - Qua nghiên cứu và giảng dạy chúng tôi thấy đa số học sinh còn một số hạn chế sau: + Phát âm chưa được chuẩn. + Đọc còn đánh vần, đọc chậm. + Vào lớp còn thiếu tập trung vào bài học. + Chưa mạnh dạn phát biểu ý kiến xây dựng bài. + Một số học sinh không thích học ,ảnh hưởng do hồn cảnh gia đình thiếu sự quan tâm chăm sóc. + Đọc nhưng không hiểu nội dung bài. + Khả năng nhận thức còn chênh lệch khá rõ rệt. B. PHẦN NỘI DUNG I. CƠ SỞ LÝ LUẬN: - Đặc điểm của HS lớp Một là trực quan sinh động sẽ dễ dàng đi sâu vào trí nhớ của các em hơn; nên sách giáo khoa ở phần Học vần, cứ mỗi bài là 2 âm vần mới gần giống nhau và có tranh minh họa cho từ có vần các em đang học. Điều nầy phù hợp với lứa tuổi HS; vừa có tác dụng mở rộng hiểu biết cho các em, vừa tạo sự hứng thú trong học tập. Tuy nhiên sang phần Tập đọc, nội dung chương trình có phần thay đổi; vì đây là phần luyện tập tổng hợp. Nhiệm vụ của GV là dạy HS luyện đọc thành tiếng và đọc hiểu. Bên cạnh đó còn kết hợp ôn luyện âm vần, đồng thời học mới một số vần chưa học ở phần 1 và phát triển vốn từ, luyện nói thể hiện trong sách giáo khoa. - Qua nghiên cứu nội dung chương trình ở phần Tập đọc, mỗi tuần có 3 bài đọc, mỗi bài được dạy trong 2 tiết. Nội dung bài học gồm 2 phần: phần văn bản và phần hướng dẫn đọc. - Các văn bản ược tuyển chọn phù hợp với tâm lý lứa tuổi HS lớp Một, thú vị, bổ ích vàgần gũi với bản tính hồn nhiên, tươi tắn của trẻ. Nhờ tiếp xúc với một thế giới mới qua sách, giúp cho sự hiểu biết của trẻ nâng cao hơn về tình cảm, phát triển trí thông minh, cởi mở và tự tin hơn. - Các văn bản được chọn lọc và đưa vào nội dung chương trình khá đa dạng và phong phú, có tính khoa học và nghệ thuật cao. Trong đó, dân bản nghệ thuật chiếm 70%; nhằm đảm bảo mục đích dạy tiếng đồng thời với dạy văn, phát triển khả năng giao tiếp kết hợp với bồi dưỡng tâm hồn, tình cảm, giáo dục đạo đức cho HS. Cung cấp cho trẻ những hiểu biết cần thiết về thế giới các em đang sống. Giúp các em đọc tốt các kiểu văn bản, mở rộng hiểu biết về thế giới tự nhiên, và học cách giao tiếp với mọi người xung quanh. - Ngồi các văn bản văn xuôi còn xen kẻ với văn vần chiếm tỉ lệ 60% đảm bảo cho sự phát triển trí tuệ có phân tích và tư duy lôgic của trẻ. Các văn bản được chọng thường là những trích đoạn trọn vẹn, được xếp theo trật tự từ ngắn đến dài, từ đơn giản đến phức tạp, độ dài từ tuần đầu đến tuần cuối dao động khoảng 50 đến 100 từ. - Ngồi các văn bản khoa học và nhật dụng còn một số văn bản mang tính hài hước gây hứng thú cho trẻ khi đọc. Từ đó giúp trẻ sớm phát triển tính hài hước của mình; ví dụ: Bài “ Vì bây giờ mẹ mới về”. Khi đọc bài nầy giúp các em hứng thú luyện đọc phân vai ở các bài tập đọc sau. Ơû học kì II sau tuần lễ 24, khi dạy phân môn Tập đọc, giáo viên phải rèn cả 4 kĩ năng : nghe, nói, đọc, viết. Song để HS đọc thông viết thạo GV phải tập trung rèn 2 kĩ năng đọc và viết. Trong 2 kĩ năng đó, kĩ năng đọc lại được chú trọng nhiều hơn, vì đây là giai đoạn quan trọng từ đánh vần chuyển sang đọc trơn từ – câu – đoạn và cả văn bản; đây củng là bước ngoặc được mở ra để các em nhanh chóng đạt được yêu cầu cơ bản: học tốt, đọc tốt. II. NỘI DUNG GIẢNG DẠY: - Trong thực tế cho thấy, khi lên lớp giảng dạy giáo viên đều có sự chuẩn bị trước; từ khâu chuẩn bị đồ dùng dạy học đến kế hoạch bài học. Cách chuẩn bị bài phù hợp với đặc điểm lao động của người GV; đây là điều kiện, là cơ sở để GV chủ động linh hoạt khi tổ chức dạy cho HS đọc văn bản. - Để HS có hứng thú trong học tập ở phân môn Tập đọc, mỡi GV cần nghiên cứu kĩ mục tiêu, nội dung, yêu cầu của bài đọc, có định hướng trước nên đọc từ nào và câu văn nào, đọc ngắt nghỉ ra sao, lấy hơi ngắn hay dài, từ nào cần nhấn giọng.. - Khi luyện đọc GV cần rèn cho HS đọc các từ ngữ khó đọc, khó phát âm; cho hS phân tích lại âm vần theo thứ tự từ dễ đến khó để củng cố lại kiến thức đã học ở phần học vần. Phát âm đúng, chuẩn xác các âm, vần, tiến, từ; dần dần yêu cầu các em đọc trơn tiếng, từ, cụm từ, rồi cả văn bản văn xuôi hay khổ thơ. - Khi luyện đọc câu, đoạn, cả bài; giáo viên cần chú ý đến chỗ ngắt nghỉ nhịp hoặc nhấn giọng các từ có tính động để kịp thời uốn nắn, sửa chữa cho các em làm tiền đề để các em dọc đúng nhịp, đọc tốt ở các bài đọc sau. - Khi luyện đọc, GV có thể tổ chức bằng nhiều hình thức khác nhau: Đọc cá nhân, bàn, dãy bàn, nhóm, lớp, đọc nối tiếp, đọc đồng thanh .. III. QUY TRÌNH DẠY MỘT BÀI TẬP ĐỌC: * Một bài tập đọc được dạy trong 2 tiết: yêu cầu HS đọc trơn bài, ôn luyện vần, tìm hiểu nội dung bài và luyện nói. µ Tiết 1: 1) Ổn định: 2) Kiểm bài cũ: HS đọc một đoạn hoặc cả bài văn ( thơ )kết hợp trả lời câu hỏi. 3) Dạy bài mới: a) Giới thiệu bài: Dùng tranh, giới thiệu bằng lời, hoặc trực tiếp ). b) Hướng dẫn HS đọc: - GV đọc mẫu ( diễn cảm ). - Hướng dẫn HS đọc tiếng, từ khó phát âm dễ lẫn có ( kí hiệu T ) ở sách giáo khoa, kết hợp với phân tích tiếng. Ví dụ: Khi dạy bài “” Mưu chú sẻ” có những từ ngữ mà GV cần rèn cho HS đọc có âm, vần dễ lẫn như: nén sợ, lễ phép, vuốt râu, xoa mép, vụt bay đi, muộn .. - Giảng nghĩa từ: - Hướng dẫn HS đọc câu, đoạn, cả bài: * Nghỉ giữa tiết c) Ôn luyện cặp vần có trong bài hoặc ngồi bài để củng cố kiến thức hoặc tìm hiểu thêm vần chưa học ở học kì I. 4) Củng cố: - Tìm tiếng có vần vừa học. 5) Nhận xét tiết. Nghỉ chuyển tiết ( 10 / ) Tóm lại: Ở tiết 1 GV có nhiệm vụ giúp HS đọc trơn tiếng, từ ngữ, câu, đoạn và cả bài theo từng bước từ dễ đến khó. Đối với HS khá giỏi GV hướng dẫn cho HS đôc lưu lót trôi chảy đoạn văn, thơ, bài văn, thơ. µ Tiết 2 Ở tiết nầy, GV tiếp tục luyện đọc cho HS kết hợp với nhiệm vụ giúp HS nhớ và hiểu nội dung bài học đồng thời trả lời các câu hỏi, trong quá trình hướng dẫn cho HS luyện nói theo nội dung tranh có liên quan đến bài học. GV thực hiện với nhiều thao tác tư duy, đây là sự khởi đầu nhận thức của các em, GV không nên nôn nóng khi các em chưa kịp nhớ nội dung đã phải phân tích – tổng hợp – khái quát hóa các yếu tố trong bài để tìm ra ý nghĩa của bài. Luyện đọc hiểu kết hợp chặt chẽ với luyện đọc nhiều lần văn bản, hay nói cách khác trước khi hỏi về nội dung một câu, một đoạn văn ( thơ ) trong bài GV yêu cầu các em đọc đi đoc lại câu văn, đoạn văn ( thơ )giúp cho tư duy các em mau chóng nắm bắt kiến thức, hiểu được nội dung bài học. Đối với HS yếu kém, GV nên dành thời gian cho phần luyện đọc, phần hỏi về nội dung bài có thể thu lại hoặc lược bớt câu hỏi. Sau bước tìm hiểu bài, GV yêu cầu HS đọc lại bài với yêu cầu cao hơn: Đọc đúng, đọc chuẩn, đọc diễn cảm, đọc hay bai văn, bài thơ với nhiều hình thức thi đọc. Riêng đối với HS lớp Một đọc diễn cảm chưa phải là yêu cầu bắt buộc, mà các em chỉ có thể đọc được, đọc đúng,đọc chuẩn. Đối với bài tập đọc là bài thơ thường có yêu cầu học thuộc lòng, nên GV có thể hướng dẫn HS đọc thuộc tại lớp một đoạn hoặc cả bài với nhiều hình thức: thi đua, nối tiếp, cá nhân, nhómđể các em dễ dàng khắc sâu kiến thức đối với những em có trí nhớ tốt. Phần luyện nói được đưa vào sau phần tìm hiểu bài nhằm phát triển ngôn ngữ của HS. Rèn cho các em sớm có tính cách mạnh dạn, tự tin, cởi mở, điều này rất quan trọng GV phải biết cách khơi gợi lên những hình ảnh gần gũi, gắn bó với chủ đề luyện nói nhằm kích thích tính năng động , hứng thú bộc lộ cảm xúc ý nghĩ các em qua những câu nói đơn giãn, mộc mạc từ dễ đến khó, đơn giãn đến phức tạp, dựa vào các tranh ảnh ở SGK hoặc sưu tằm. GV tổ chức cho HS nói bằng nhiều hình thức: nói theo cặp, nhóm, trước lớp. Từ đó giúp các em suy nghĩ ra những câu hỏi, câu trả lời hồn nhiên và độc đáo. QUI TRÌNH DẠY TIẾT 2 Kiểm tra kiến thức của tiết 1: GV có thể gọi HS đọc lại đoạn văn, đoạn thơ. Hướng dẫn HS tìm hiểu bài: -Yêu cầu HSđọc câu hỏi ở SGK. -Gọi HS đọc đoạn văn ( thơ) có liên quan đến câu hỏi và trả lời câu hỏi. -Tổ chức cho HS thi đọc bằng nhiều hình thức: cá nhân, nhóm, đọc phân vai, đọc nối tiếp. NGHĨ GIỮA TIẾT Luyện nói: HS đọc yêu cầu luyện nói. HS nói câu mẫu. HS tập nói theo cặp, hoặc nói trong nhóm. Đại diện một số nhóm lên nói trước lớp. Nhận xét, tuyên dương. 4 ) Củng cố: - Hỏi lại nội dung bài. - HS đọc lại bài. - Cả lớp đồng thanh. 5 ) Nhận xét, dặn dò. Yêu cầu HS chuẩn bị bài học sau. BÀI HỌC KINH NGHIỆM . Qua thời gian giảng dạy tôi rút ra một số kinh nghiệm khi dạy phân môn tập đọc cho HS lớp một như sau: -Tiếng Việt là phương tiện giúp HS học tốt các môn học khác, vì vậy GV cần quan tâm hướng dẫn các em học tốt môn học này. Đặc biệt là GV chú ý đến sự phát triển tâm sinh lý của các em, ở tuổi mới vào lớp một các em thích chơi nhiều hơn học, mỗi khi vào học các em thường có biểu hiện thiếu tập trung cho nhu cầu học tập. Do đó trong mỗi tiết học GV nên thay đổi hình thức tổ chức học tập sau cho sinh động, nhẹ nhàng , thoải mái để gây hứng thú và tạo sự chú ý cho các em. -GV là người tổ chức, hướng dẫn các hoạt động học tập cho các em giúp các em chiếm lĩnh tri thức bằng sự nổ lực phấn đấu của mình, trên cơ sở tích cực chủ động sáng tạo nhạy bén tiếp thu kiến thức mớiGV không làm thay cho HS mà giúp các em động não suy nghĩ đối với HS khá giỏi. Riêng đối với HS yếu hoặc có khiếm khuyết trong cách phát âm, GV không nên nóng vội đặt yêu cầu quá cao mà phải giúp các em luyện tập dần dần từ dễ đến khó,mặc khác, GV cần phát huy khen thưởng kịp thời những tiến bộ của các em dù là rất nhỏ để tạo niềm tin vững chắc mà phấn đấu vươn lên. - GV cần quan tâm nhiều ở phần luyện đọc( vần, tiếng, từ, câu )mỗi HS điều được đọc.) -Tổ chức lớp học thật sự đồn kết, thống nhất giúp đỡ nhau cùng nhau tiến bộ. - Xây dựng mối quan hệ gần gũi giữa thầy và trò, thầy sẳn sàng chia sẻ với trò những bức xúc, khó khăn trong học tập. Trò mạnh dạn trao đổi thông tin với thầy có như vậy thì hiệu quả dạy và học không ngừng nâng cao. Người thực hiện Trần Thị Thanh Nguyên Sáng kiến kinh nghiệm 2007 - 2008 MỘT SỐ GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC TRÌNH TRÌNH TRẠNG HỌC SINH YẾU KÉM A. PHẦN MỞ ĐẦU. I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI: Đất nước ta đang trong thời kì phát triển về mọi mặt đặc biệt là nền văn hóa giáo dục được Đảng và Nhà nước quan tâm hơn. Vì vậy thực hiện công tác phổ cặp tiểu học đúng độ tuổi là vị trí hàng đầu không thể xem nhẹ. Đâylà một trong những nhiệm vụ quan trọng cơ bản của những người làm công tác giáo dục đặc biệt là GV trực tiếp giảng dạy. Trong quá trình giảng dạy, GV luôn tìm ra những phương pháp phù hợp tâm lý của HS yếu nhằm giúp các em học tập không chán mà có ý thức vươn lên, có như vậy mới hạn chế được tỉ lệ HS lưu ban ngồi nhằm lớp. Để góp phần thực hiện tốt nhiệm vụ trên tôi mạnh dạn đưa ra một số giải pháp nhằm khắc phục tình trạng HS yếu kém Một mà bản thân tôi áp dụng có hiệu quả trong năm học vừa qua và đây cũng là đề tài tôi nghiên cứu và tiếp tục áp dụng cho những năm tới. Tôi mong được sự góp ý bổ sung của các bạn đồng nghiệp và các cấp lãnh đạo ngành để đề tài hồn chỉnh và thực hiện tốt hơn. II. THỰC TRẠNG HỌC SINH: Trường tiểu học An Hòa Tây 2 là một trong hai trường TH thuộc xã An Hòa Tây. Trường có 2 điểm, trong đó có một điểm vùng sâu thuộc ( Giồng Đình ). Đời sống nhân dân rất đa dạng, nhân dân sống bằng nhiều ngành nghề như: làm ruộng, làm giồng, chăn nuôi, đánh bắt thủy sản. đặc biệt có một số gia đình không có nghề nghiệp, chuyên đi làm thuê, làm mướn để kiếm sống. Mặc khác, có một số gia đình phải đi làm ăn xa, giao con cho ông bà hoặc người thân chăm sóc, do đó các em chịu thiếu thốn về mọi mặt, không được sự chú ý theo dõi dẫn đến trình trạng học tập sa sút, lêu lỏng ham chơi dần dần các em lười biếng kiến thức hỏng hạn chế kĩ năng, cuối cùng đưa đến trình trạng bỏ học. Một số vào lớp Một chưa qua mẫu giáo nên khả năng tiếp thu bài và hình thành thao tác, kĩ năng rất chậm, khả năng tư duy yếu, đôi lúc còn thụ động chưa mạnh dạn đưa tay phát biểu xây dựng bài, chưa có phương pháp tự học tốt. B. PHẦN NỘI DUNG I. NGUYÊN NHÂN DẪN ĐẾN TRÌNH TRẠNG HỌC SINH YẾU KÉM: 1) Về phía giáo viên: - Trong giảng dạy còn một số giáo viên chưa quan tâm đúng mức đến đối tượng HS yếu kém, chưa theo dõi kịp thời những biểu hiện nhút nhát của HS. Tốc độ dạy kiến thức mới quá nhanh và thời gian tổ chức cho HS thực hành quá ít làm cho HS nhận thức không kịp. - Sợ dạy không kịp chương trình bất kể bài dài hay ngắn, khó hay dễ, cứ dạy theo số tiết đã được phân bố theo phân phối chương trình, mặc cho HS hiểu hay không hiểu GV vẫn thực hiện cho đủ số tiết qui định để khỏi bị góp ý phê bình, vì vậy HS chậm phát triển không nắm được kiến thức, lơ là rèn luyện kĩ năng. - Chưa có kế hoạch phụ đạo học sinh yếu cụ thể cho từng nhóm đối tượng, thực hiện phụ đạo còn chung chung. 2) Về phía phụ huynh: - Do điều kiện hồn cảnh kinh tế gia đình khó khăn hoặc gia đình bị rạn nức, bao nhiêu buồn phiền đổ trút về phía các em, thậm chí có những hành vi đánh đập, chữi mắng làm cho các em thiếu tự tin, từ đó dẫn đến hậu quả học tập yếu kém. -Một số phụ huynh tuy có quan tâm nhưng quan tâm chưa đúng mức, sợ con đến lớp làm bài điểm không cao hoặc không làm bài được đã tự ý làm bài thay cho con trước ở nhà. -Ngồi ra vẫn còn một số phụ huynh chưa thật sự quan tâm đến việc học của con mình, chưa tạo điều kiện để các em đến lớp học tập vui vẻ, có những em chưa có dụng cụ học tập hoặc có dụng cụ học tập nhưng không đầy đủ, từ đó làm cho các em mặc cảm có chiều hướng chểnh mảng đến lớp. Mặc khác có những phụ huynh khốn trắng cho nhà trường. 3) Về phía nhà trường: -Hiện nay các phòng học nhà trường đã khang trang nhưng bàn ghế học sinh đã bị xuống cấp nặng và không đúng qui cách nên ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng chữ viết của học sinh. -Các văn bản hướng dẫn về chuyên môn và tài liệu tham khảo hiện nay chỉ dành cho việc bồi dưỡng học sinh giỏi, chưa có tài liệu nào đề cập đến việc phụ đạo học sinh yếu. 4) Về phía học sinh: -Mới vào lớp Một các em chưa quen nội qui trường học, lớp học, chưa quen thầy cô giáo mới, thích chơi nhiều hơn học, vì vậy các em ít chú trọng đến việc học, bản tính nhút nhát, sợ sệt không dám phát biểu, đồng thời chưa có phương pháp học tập tốt, thặm chí có những em nghỉ học hai, ba ngày nhưng phụ huynh vẫn đồng ý xem như không có việc gì. - Một số HS do ăn uống không đủ chất cơ thể không phát triển, sức khỏe yếu, thường xuyên bệnh tật cũng làm ảnh hưởng đến việc học của các em. - Do học ở lớp về nhà không xem lại bài, khi đến lớp quên kiến thức cũ vì vậy việc nắm bắt kiến thức mới gặp khó khăn dần dần các em bị hỏng kiến thức nẩy sinh chán học, bỏ học. II. BIỆN PHÁP THỰC HIỆN: -Để thực hiện việc phụ đạo học sinh yếu đạt kết quả tốt, trước hết GV phải nắm vững tâm lí phát triển của các em, đồng thời các kiến thức mà các em chưa hiểu để lựa chọn phương pháp cho phù hợp với từng đối tượng học sinh. - Phải có trình độ chuyên môn nhứt định, nắm vững kiến thức của từng bài học, kiên trì , chịu khó tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến trình trạng học yếu của HS. - Có thái độ gần gũi HS, kiên trì, chịu khó thể hiện tình cảm như người mẹ, tạo điều kiện thuận lợi để các em hứng thú học tập. -Phân chia HS thành nhiều nhóm khác nhau, lập kế hoạch phụ đạo cụ thể cho từng nhóm. Ví dụ: + Nhóm HS đã qua lớp mẫu giáo. + Nhóm HS chưa qua lớp mẫu giáo. + Nhóm HS có sự quan tâm của gia đình. + Nhóm HS thích hoạt động. + Nhóm HS thụ động. + Nhóm HS có sức khỏe yếu. Trên cơ sở phân chia nhóm giáo viên lựa chọn phương pháp giảng dạy cho phù hợp với từng nhóm đối tượng. - Đối với những HS yếu, kém, khi giảng dạy giáo viên phải thường xuyên theo dõi, kiểm tra kết quả học tập của các em, tìm hiểu cách suy nghĩ qua bài làm của các em, không nên nôn nóng mà tùy tiện nâng cao yêu cầu bài học vượt quá khả năng của các em. - Có kế hoạch phụ đạo HS yếu trong các buổi phụ đạo cụ thể, chủ yếu là ôn lại kiến thức đã học trên lớp mà các em chưa nắm được, phân tích cụ thể những sai lầm mà các em mắc phải để các em khắc phục sửa sai. - Tổ chức cho HS khá giỏi thường xuyên giúp đỡ HS yếu kém với nhiều hình thức: Học nhóm ở trường , ở nhà, truy bài đầu giờ III. KẾT QUẢ: Thực hiện theo phương chăm “ Tất cả vì đàn em thân yêu ” Tôi đã vận dụng phương pháp phụ đạo HS yếu đạt kết quả tốt trong năm học 2007 – 2008 như sau: *Giữa học kì I: Xếp loại Môn Tỉ lệ Giỏi Tỉ lệ khá Tỉ lệ T. Bình Tỉ lệ Yếu Tốn Tiếng việt * Cuối học kì I: Xếp loại Môn Tỉ lệ Giỏi Tỉ lệ khá Tỉ lệ T. Bình Tỉ lệ Yếu Tốn Tiếng việt *Giữa học kì II: Xếp loại Môn Tỉ lệ Giỏi Tỉ lệ khá Tỉ lệ T. Bình Tỉ lệ Yếu Tốn Tiếng việt *Cả năm: Xếp loại Môn Tỉ lệ Giỏi Tỉ lệ khá Tỉ lệ T. Bình Tỉ lệ Yếu Tốn Tiếng việt C. BÀI HỌC KINH NGHIỆM Qua thời gian giảng dạy và áp dụng các biện pháp nêu trên, tôi rút ra được một số kinh nghiệm về công tác khắc phục trình trạng học sinh yếu, kém như sau: -Mỗi giáo viên cần quan tâm đến việc tự học, tự bồi dưỡng nhằm nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho bản thân, thường xuyên trao dồi phẩm chất đạo đức, lối sống làm tấm gương sang cho HS noi theo. - Có tấm lòng vị tha độ lượng, yêu nghề mến trẻ gần gũi thương yêu chăm sóc giúp đỡ HS. -Thường xuyên theo dõi,kiểm tra đánh giá kết quả học tập của HS phân tích tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến học sinh học yếu để lựa chọn phương pháp phụ đạo phù hợp và tạo hứng thú học tập cho HS. - Phân chia HS thành nhiều nhóm đối tượng cụ thể và lựa chọn phương pháp giảng dạy cho phù hợp với từng nhóm đối tượng, lưu ý cho HS các kiến thức trọng tâm của từng bài dạy, hướng dẫn HS làm bài tập cụ thể chú ý phát huy tính tích cực, chủ động , sáng tạo của HS, có thể đưa thêm một số bài tập cùng thể loại, cùng mức độ để rèn kĩ năng khắc sâu kiến thức cho HS, GV không làm thay. -Ngồi giờ học chính khóa, GV cần có kế hoạch phụ đạo riêng cho các em học yếu học trái buổi. - Tổ chức cho học sinh tham gia học tốt với hình thức: “ đôi bạn cùng tiến ”, có thể cho các em thi đua giữa các nhóm với nhau để gây sự hứng thú trong học tập tạo điều kiện để các em phấn đấu vươn lên. Tranh thủ sự hổ trợ của các cơ quan đồn thể địa phương và thường xuyên liên hệ với phụ huynh nhằm kết hợp chặt chẽ ba môi trường để giảng dạy và giáo dục đạt kết quả tốt hơn. Người thực hiện Trần Thị Thanh Nguyên
Tài liệu đính kèm: