Sáng kiến kinh nghiệm - Một số biện pháp rèn kỹ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 5

Việt Nam chúng ta đang thực hiện công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước với mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Trong công cuộc kiến thiết đó nước nhà rất cần những con người lao động có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ vững vàng, thực sự uyên bác về khoa học, tinh thông, lão luyện về khoa học kĩ thuật để đủ sức khám phá, đề xuất, sáng tạo cái mới, cải thiện những cái đã có, tạo ra bước ngoặt về sự phát triển kinh tế xã hội. Chính vì vậy, Đảng và Nhà nước ta đã chỉ rõ: “Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu” với mục tiêu: “Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài”. Hiện nay chúng ta đang thực hiện đổi mới nhiều vấn đề liên quan đến dạy và học với mục đích là nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh. Đặc biệt đối với bậc Tiểu học được xác định “là bậc học nền tảng trong hệ thống giáo dục quốc dân” (Điều 2 - Luật giáo dục). với mục tiêu cơ bản là: “nhằm giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất và thẩm mỹ và các kĩ năng cơ bản để học sinh tiếp tục học trung học cơ sở”. (Điều 23 - Luật Giáo dục) Mục tiêu đó được cụ thể hóa trong từng môn học, từng lớp học, từng hoạt động của cả bậc học.

Cùng với các môn học khác, môn Toán của tiểu học có vị trí và tầm quan trọng rất lớn. Môn Toán là một môn học được xem như công cụ để học các môn học khác, là "chìa khóa" mở cửa cho tất cả các ngành khoa học khác, nó là công cụ cần thiết của người lao động trong thời đại mới. Trên cơ sở cung cấp những tri thức khoa học ban đầu về số học, các số tự nhiên, các số thập phân, các đại lượng cơ bản, giải toán có lời văn ứng dụng thiết thực trong đời sống và một số yếu tố hình học đơn giản. Môn Toán ở tiểu học bước đầu hình thành và phát triển năng lực trừu tượng hóa, khái quát hóa, kích thích trí tưởng tượng, gây hứng thú học tập toán, phát triển hợp lý khả năng suy luận và biết diễn đạt đúng bằng lời, bằng viết, các suy luận đơn giản, góp phần rèn luyện phương pháp học tập và làm việc khoa học, linh hoạt sáng tạo cho học sinh tiểu học.

Trong dạy - học toán ở tiểu học, việc giải toán có lời văn chiếm một vị trí quan trọng. Bởi học sinh phải tư duy một cách tích cực và linh hoạt, huy động tích cực các kiến thức và khả năng đã có vào tình huống khác nhau, trong nhiều trường hợp phải biết phát hiện những dữ kiện hay điều kiện chưa được nêu ra một cách tường minh và trong chừng mực nào đó, phải biết suy nghĩ năng động, sáng tạo. Vì vậy có thể coi giải toán có lời văn là một trong những biểu hiện năng động nhất cho hoạt động trí tuệ của học sinh.

 

doc 23 trang Người đăng honganh Lượt xem 1226Lượt tải 4 Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm - Một số biện pháp rèn kỹ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 5", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n thấy: Trình độ nhận thức của học sinh không đồng đều, yêu cầu đặt ra khi giải các bài toán có lời văn cao hơn những lớp trước, các em phải đọc nhiều, viết nhiều, bài làm phải trả lời chính xác với phép tính, với các yêu cầu của bài toán đưa ra, nên thường vướng mắc về vấn đề trình bày bài giải: sai sót do viết không đúng chính tả hoặc viết thiếu, viết từ thừa. Một sai sót đáng kể khác là học sinh thường không chú ý phân tích theo các điều kiện của bài toán nên đã lựa chọn sai phép tính. Qua thực tế giảng dạy cho HS lớp 5, có khoảng 70% - 85% học sinh chưa thành thạo về giải toán có lời văn. Với những lý do đó, trong học sinh tiểu học nói chung và học sinh lớp năm nói riêng, việc học toán và giải toán có lời văn rất quan trọng và rất cần thiết. Để thực hiện tốt mục tiêu đó, giáo viên cần phải nghiên cứu, tìm biện pháp giảng dạy thích hợp, giúp các em giải bài toán một cách vững vàng, hiểu sâu được bản chất của vấn đề cần tìm, mặt khác giúp các em có phương pháp suy luận toán logic thông qua cách trình bày, lời giải đúng, ngắn gọn, sáng tạo trong cách thực hiện. Từ đó giúp các em hứng thú, say mê học toán. 
Từ những căn cứ đó tôi đã chọn đề tài "Một số biện pháp rèn kĩ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 5" để nghiên cứu với mục đích xuất một số ý kiến góp phần nâng cao chất lượng dạy học giải toán có lời văn nói riêng và môn toán lớp 5 nói chung. 
2. PHẠM VI ÁP DỤNG SÁNG KIẾN:
	- Đối tượng: Học sinh lớp 5.
	- Thời gian áp dụng: Năm học 2011 - 2012 và năm học 2012 - 2013 (Trong học kì I).
	- Giả thuyết khoa học: Nếu sáng kiến này áp dụng thành công thì sẽ góp phần nâng cao hiệu quả việc dạy học giải toán có lời văn cho học sinh lớp 5, góp phần nâng cao hiệu quả chất lượng giáo dục học sinh trong nhà trường. Nếu thành công, rất mong được áp dụng cho trong tất cả các lớp ở trường tôi và các trường bạn.
II. PHẦN NỘI DUNG
1. THỰC TRẠNG CỦA NỘI DUNG CẦN NGHIÊN CỨU:
1.1. Một số đặc điểm tình hình nhà trường, giáo viên và học sinh:
* Thuận lợi:	
- Trường có một khu vực chính 16 lớp và một khu vực lẻ có 2 lớp. Nhìn chung cơ sở vật chất, khuôn viên, các điều kiện và phương tiện dạy học ngày càng được cải tạo, tăng trưởng, từng bước đáp ứng được nhu cầu giảng dạy, giáo dục hiện nay.
- Trường là một đơn vị có thành tích đáng tự hào trong công tác giáo dục - đào tạo trong mấy năm gần đây. Từ năm đến ...năm... liên tục đạt danh hiệu trưưòng tiên tiến cấp huyện và được công nhận đạt chuẩn quốc gia mức I năm 20.. và được kiểm tra công nhận lại vào tháng năm 2008. 
- Tập thể giáo viên trường tôi là một tập thể sư phạm vững mạnh và đoàn kết, thực sự tâm huyết với nghề, có tinh thần trách nhiệm cao, tất cả vì học sinh thân yêu. Tổng số cán bộ giáo viên là 30 người đều đạt chuẩn và trên chuẩn.
- Đa số các em là con em nông dân, thật thà chất phác và chăm học.
- Nhận thức của địa phương, phụ huynh về giáo dục ngày càng đổi mới.
* Khó khăn:	
- Mấy năm học gần đây tôi được phân công dạy lớp 5. Học sinh lớp tôi phần lớn là con nông dân, ngoài việc làm ruộng bố mẹ hay đi làm ăn xa để kiếm thêm thu nhập nên một số em phải ở nhà với ông bà. Điều kiện kinh tế gia đình còn gặp nhiều khó khăn nên các em chưa thực sự được bố mẹ quan tâm đúng mức, tất cả mọi việc học của con đều phó mặc cho nhà trường. Điều đó ảnh hưởng rất lớn đến việc học tập của các em. Nhất là với môn Toán số lượng học sinh yếu còn nhiều, chất lượng học tập chưa cao, có những học sinh không hiểu được đề bài toán nên làm cho có, dẫn đến kết quả của bài toán sai khá nhiều. 
Để thực hiện được vấn đề này, tôi đã tìm hiểu và nắm rõ tình hình học sinh lớp tôi ngay khi được phân công. Trước tiên tôi xem sổ chủ nhiệm năm học trước đồng thời tôi trao đổi với giáo viên chủ nhiệm năm học trước để nắm rõ hơn. Sau đó tôi cho học sinh kiểm tra lại để phân loại từng đối tượng học sinh. 
1.2. Số liệu thống kê: 
Đầu mỗi năm học tôi luôn tự khảo sát chất lượng môn Toán của lớp mình với kết quả như sau: năm học 2012 - 2013 (vì tỉ lệ học sinh yếu môn Toán chịu ảnh hưởng rất lớn ở phần bài tập giải toán có lời văn). 
Thời gian khảo sát
Tổng số HS
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu
SL
TL
SL
TL
SL
TL
SL
TL
Năm học 2011-2012
 27
3
8
8
8
Năm học 2011-2012
25
2
8%
7
28%
7
28%
9
36%
* Nhận xét: Qua số liệu thống kê cho thấy số học sinh đạt loại giỏi rất ít, số học sinh đạt trung bình và yếu khá cao. Điều đó cho thấy học sinh chưa nắm vững về cách giải toán có lời văn.
 1.3. Thực trạng về giải toán có lời văn đối với học sinh lớp 5:
Trong mạch kiến thức giải toán có lời văn bao gồm nhiều dạng bài: dạng toán đơn, dạng toán hợp, dạng toán điển hình, dạng toán có nội dung liên quan đến hình học,...Đa số các dạng toán đơn thì HS làm được, song các bài toán từ 2 phép tính trở lên thì đa số học sinh yếu không làm được bởi một số nguyên nhân sau:
- Kĩ năng đọc đề, phân tích đề của HS còn hạn chế. Học sinh đọc đề vội vàng, chưa biết tập trung vào những dữ kiện trọng tâm của đề toán không chịu phân tích đề toán khi đọc đề.
- Kĩ năng nhận dạng toán, nắm các bước giải trong từng dạng toán còn lúng túng. Khả năng phân tích, tổng hợp, khái quát hoá vấn đề và tư duy của học sinh còn hạn chế khi gặp những bài toán phức tạp. Hầu hết, các em làm theo khuôn mẫu của những dạng bài cụ thể mà các em thường gặp trong sách giáo khoa, khi gặp bài toán đòi hỏi tư duy, suy luận một chút các em không biết cách phân tích dẫn đến lười suy nghĩ. 
- Chưa biết lập kế hoạch giải bài toán.
- Kĩ năng đặt lời giải, kĩ năng tính toán của học sinh còn gặp nhiều khó khăn. Một số em biết tìm ra phép tính đúng nhưng khi đặt lời giải thì còn lúng túng và có khi đặt lời giải cho bài toán chưa hợp lý.
- Học sinh chưa được luyện tập thường xuyên, nên thường nhầm lẫn giữa các dạng toán.
- Đa số giải toán có lời văn thường tập trung ở các đối tượng học sinh khá giỏi nên thói quen của các đối tượng HS trung bình và yếu là bỏ qua các bài toán giải hoặc làm cho có, không có động não suy nghĩ. Từ thói quen lười suy nghĩ dẫn đến hiệu quả thấp.
- Trí nhớ của các em chưa thoát khỏi tư duy cụ thể nên còn ngại khó khi gặp các bài toán phức tạp. Từ đó dẫn đến kết quả học tập của các em chưa cao.
- Khi giải xong bài toán, đa số học sinh bỏ qua bước kiểm tra lại bài, dẫn đến nhiều trường hợp sai sót đáng tiếc do tính nhầm, do chủ quan. Ngoài ra, còn có những trường hợp học sinh hiểu bài nhưng còn lúng túng trong cách trình bày nhất là với các bài toán giải có lời văn phức tạp.
	- Thực tế trong một tiết dạy 35 phút, vừa dạy bài mới, vừa làm bài tập và các bài toán có lời văn thường ở cuối bài nên thời gian để luyện nêu đề, nêu câu trả lời không được nhiều nên học sinh chưa khắc sâu kiến thức, chưa nắm được mẹo để giải bài toán. 	
- Một số học sinh gia đình còn khó khăn nên chưa quan tâm đúng mức đến việc học của con em mình dẫn đến kết quả học tập còn thấp.
- Một số học sinh chưa ý thức việc học của mình.	
Từ những thực trạng trên tôi mạnh dạn cải tiến nội dung, phương pháp giảng dạy như sau: 
2. CÁC GIẢI PHÁP:
	2.1. Công tác chuẩn bị tiết dạy giáo viên: 
	- Công tác chuẩn bị của giáo viên thể hiện rõ qua việc soạn giáo án, phương pháp lên lớp, đồ dùng dạy học. Muốn giảng dạy tốt thì trước khi lên lớp giáo viên cần nghiên cứu kĩ nội dung bài, hiểu rõ ý đồ của sách giáo khoa, lựa chọn phương pháp, hình thức tổ chức dạy học tốt nhất nhằm phát huy tính tích cực chủ động, sáng tạo của học sinh. Cụ thể trong giáo án phải thể hiện rõ hoạt động của thầy và hoạt động của trò, phải chú ý đến các đối tượng học sinh để đưa ra các tình huống, câu hỏi hợp lí cho từng đối tượng khá - giỏi, trung bình, yếu. 
	- Trong khâu chuẩn bị bài giáo viên cũng cần chú ý đến việc chuẩn bị đồ dùng dạy học làm sao phát huy được sự sáng tạo, kích thích óc tưởng tượng và tư duy của học sinh. Mỗi tuần nên chuẩn bị tối thiểu 2 giáo án dạng trình chiếu.
 2.2. Hướng dẫn học sinh nắm chắc phương pháp chung về các bước giải các bài toán có lời văn:
Điều tôi trăn trở nhất là làm thế nào để các em thấy được niềm vui, sự say mê khi giải toán có lời văn. Các em không chỉ hiểu mà phải làm bài theo nhiều cách khác nhau. Biết vận dụng vào thực tế một cách có hiệu quả. Vì vậy tôi xem xét kỹ và giúp đỡ các em từng bước cụ thể.
1. Tìm hiểu đề:
 - Việc tìm hiểu nội dung đề toán thường thông qua việc đọc bài toán dù bài toán cho dưới dạng lời văn hoàn chỉnh hoặc bằng dạng tóm tắt (sơ đồ). Tập cho học sinh có thói quen tự tìm hiểu bài toán. Tránh tình trạng vừa đọc xong đã bắt tay vào giải bài toán ngay mà phải xác định được dữ liệu đã cho và cái phải tìm và ghi vào vở nháp 2 yêu cầu cơ bản ấy. Nếu trong bài toán có thuật ngữ nào mà học sinh chưa hiểu rõ, giáo viên cần hướng dẫn để học sinh hiểu được nội dung và ý nghĩa của từ đó trong bài toán đang làm, chẳng hạn từ “tiết kiệm”, “năng suất”, “sản lượng”
Ví dụ 1: Một lớp học có 28 học sinh, trong đó số học sinh nam bằng 2/5 số học sinh nữ. Hỏi lớp học đó có bao nhiêu em nữ, bao nhiêu em nam? (Bài 1- trang 22 - Luyện tập chung)
- Dữ liệu đã cho: Lớp học có 28 học sinh, trong đó số học sinh nam bằng 2/5 số học sinh nữ.
- Yêu cầu phải tìm: Số học sinh nam, số học sinh nữ của lớp học đó.
* Tuy nhiên, trong quá trình giải toán không phải tất cả các đề bài đều cho dữ liệu trước và yêu cầu phải tìm sau mà đôi khi ngược lại: Đưa ra câu hỏi trước rồi mới cho dữ liệu.
Ví dụ 2: Tính chu vi một mảnh đất hình chữ nhật, biết chiều dài gấp 2 lần chiều rộng và hơn chiếu rộng 15m. (Bài 2- trang 22 - Luyện tập chung)
- Dữ liệu đã cho: Chiều dài gấp 2 lần chiều rộng và hơn chiếu rộng 15m.
- Yêu cầu cần tìm: Chu vi mảnh đất hình chữ nhật.
* Học sinh phải phân biệt rõ những gì thuộc về bản chất, những gì không thuộc về bản chất của đề toán để hướng sự chú ý của mình vào những chỗ cần thiết, cụ thể.
Ví dụ 3: Một trường có 639 học sinh, trong đó có 1/3 số học sinh là đội viên. Nhân ngày 15 tháng 5 có thêm 72 em nữa được kết nạp vào Đội. Hiện nay có tất cả bao nhiêu em đã vào Đội?
- Dữ liệu đã cho: 1/3 của 639 học sinh, thêm 72 học sinh.
- Yêu cầu phải tìm: Số đội viên có tất cả.
2. Tóm tắt đề:
Trong giải toán có lời văn, tóm tắt đề toán cũng là một việc rất cần thiết và quan trọng. Vì có tóm tắt được đề toán các em mới biết tìm ra mối quan hệ giữa cái đã cho và cái cần tìm để tìm ra cách giải bài toán.
Mỗi bài toán đều có nhiều cách tóm tắt khác nhau, tuy nhiên các em cần lựa chọn cách tóm tắt sao cho phù hợp với nội dung từng bài để dễ hiểu, đơn giản và ngắn gọn nhất. Có những bài toán nên tóm tắt bằng lời song cũng có nhiều bài toán nên tóm tắt sơ đồ hoặc vừa tóm tắt bằng sơ đồ vừa tóm tắt bằng lời cũng vẫn dễ hiểu như nhau.
 Ví dụ 1: Một thùng đựng 28,75 kg đường. Người ta lấy từ thùng đó ra 10,5 kg đường sau đó lại lấy ra 8 kg đường nữa. Hỏi trong thùng còn bao nhiêu ki- lô- gam đường? (Bài 3- trang 54 - Trừ hai số thập phân)
	Tóm tắt bằng lời:
Trong thùng có: 28,75kg đường
Lần đầu lấy ra: 10,5 kg đường 
Lần sau lấy ra: 8 kg đường
Còn lại:.kg đường?
Ví dụ 2: Một người thợ dệt, ngày thứ nhất dệt được 28,4m vải, ngày thứ hai dệt nhiều hơn ngày thứ nhất 2,2m vải, ngày thứ ba dệt hơn ngày thứ hai 1,5m vải. Hỏi cả ba ngày người đó dệt được bao nhiêu mét vải? (Bài 4- trang 52 - Luyện tập).	
Tóm tắt bằng sơ đồ đoạn thẳng:
Ngày thứ nhất:	28,4m
Ngày thứ hai:	 2,2m ? m vải
Ngày thứ ba:	1,5m
Phần tóm tắt đề tôi yêu cầu học sinh tự làm vào vở và kiểm tra từng em. Sau khi tóm tắt xong, yêu cầu học sinh nhìn vào tóm tắt đọc lại một bài toán hoàn chỉnh đúng theo ý đề đã cho.
3. Phân tích bài toán để tìm cách giải:
Cũng như tất cả các môn học khác, để làm được bài thì học sinh cần xác định xem bài yêu cầu chúng ta làm gì? Vì thế sau khi cho học sinh nhìn tóm tắt đọc lại đề bài giáo viên nên nêu câu hỏi: Bài toán hỏi gì? để học sinh suy nghĩ.
- Tiếp đó yêu cầu học sinh suy nghĩ: Muốn trả lời được câu hỏi của bài toán thì cần phải biết những gì? Trong những điều ấy cái gì đã biết, cái gì chưa biết?
- Học sinh nêu ý kiến giáo viên chưa vội kết luận ngay mà nên khuyến khích để các em tự làm bài theo ý hiểu của mình.
Ví dụ: Một người đã bán được 150 quả cam và quýt, trong đó số cam bằng 2/3 số quýt. Tìm số cam, số quýt đã bán?
- Giáo viên hướng dẫn học sinh phân tích đề:
+ Bài toán cho biết gì? (Số cam và số quýt có tất cả là 150 quả, trong đó số cam bằng 2/3 số quýt)
+ Bài toán hỏi gỉ? (Tìm số cam, số quýt đã bán)
+ Số cam và quýt là 150 qủa nghĩa là gì? (Số cam cộng với số quýt bằng 150 quả)
+ Số cam bằng 2/3 số quýt nghĩa là gì? ( Số quýt được chia làm ba phần thì số cam chiếm 2 phần).
- Hãy vẽ đoạn thẳng biểu diễn số cam và số quýt (Một học sinh lên bảng thực hiện, lớp làm nháp).
	? qủa
Số cam	 
 150 quả
Số quýt	
	? qủa
	+ Muốn tìm số cam ta làm như thế nào? (Lấy 150 : (2 + 3) x 2 )
	+ Muốn tìm số quýt ta làm như thế nào? (Lấy 150 - số cam)
	- Sau khi phân tích xong đề toán học sinh sẽ tự rút ra được trình tự giải dạng toán này như sau:
	Bước 1: Vẽ sơ đồ
	Bước 2: Tìm tổng số phần bằng nhau
	Bước 3: Tìm số bé bằng cách lấy tổng hai số chia cho tỉ số phần bằng nhau và nhân với số phần bằng nhau của số bé.
	Bước 4: Tìm số lớn bằng cách lấy tổng hai số trừ số bé vừa tìm được
	4. Tổng hợp giải toán:
	Yêu cầu các em dựa vào kết quả phân tích bài toán ở trên kết hợp với những điều kiện đã chọn trong bài toán rối lần lượt thực hiện các phép tính để đi đến đáp số của bài. Trong quá trình học sinh cả lớp làm bài, tôi luôn kiểm tra những học sinh còn yếu kém trong lớp nhằm giúp học sinh củng cố và hướng dẫn theo từng bước cụ thể để các em hiểu ra vấn đề và nắm bài một cách chắc chắn.
	Ví dụ: Một người bỏ ra 42.000 đồng tiền vốn mua rau. Sau khi bán hết số rau người đó thu được 52.500 đồng. Hỏi:
	a) Tiền bán rau bằng bao nhiêu phần trăm tiền vốn?
b) Người đó lãi bao nhiêu phần trăm? (Bài 3- trang 76 - Luyện tập)
	- Giáo viên hỏi: Bài toán cho biết gì? (Số tiền vốn là 42.000 đồng, số tiền sau khi bán rau là 52.500 đồng).
	+ Bài toán hỏi gì? (Tiền bán rau bằng bao nhiêu phần trăm tiền vốn? Người đó lãi bao nhiêu phần trăm?).
	- Gọi 1 HS lên bảng tóm tắt bài toán và trình bày lời giải vào bảng phụ, lớp làm vào vở.
	Tóm tắt:
	Tiền vốn: 42.000 đồng
	Tiền bán: 52.500 đồng
a) Tìm tỷ số phần trăm của số tiền bán rau và số tiền vốn.
b) Tìm xem người đó lãi bao nhiêu phần trăm.
	Bài giải:
a) Tỷ số phần trăm của số tiền bán rau và số tiền vốn là:
52.500: 42.000 = 1,25
1,25 = 125%
b) Tỷ số phần trăm của tiền bán rau và số tiền vốn là 125% nghĩa là coi tiền vốn là 100% thì tiền bán rau là 125%. Do đó, số phần trăm tiền lãi là:
125% - 100% = 25%
 Đáp số: a) 125%; b) 25%
	* Như chúng ta đã biết, mỗi bài toán không chỉ một cách giải duy nhất nên để phát huy thêm cách giải mới, tôi có thể nêu câu hỏi: Trên đây là cách giải của bạn, ngoài cách giải này bạn nào có cách giải khác?
	Sau đó tôi thu tất cả các bài giải của học sinh (theo cách khác trên bảng) để kiểm tra và cho học sinh tham khảo trong tiết sinh hoạt tập thể.
	* Cách giải khác của bài toán trên:
a) Tỷ số phần trăm của tiền bán rau và tiền vốn là:
52.500: 42.000 = 1,25
1,25 = 125%
b) Số tiền lãi sau khi bán rau là:
52.500 - 42.000 = 10.500 (đồng)
 Số phần trăm tiền lãi là:
10.500 : 42.000 = 0,25 = 25%
	 Đáp số: a) 125%; b) 25%
	5. Kiểm tra - thử lại:
	Thông thường để có được đáp số đúng thì phải làm đúng các phép tính trong bài giải. Muốn thế thì học sinh phải nắm vững các quy tắc tính toán. Nhưng trong thực tế ngay cả những học sinh đã nắm vững các quy tắc tính toán vẫn có thể phạm lầm lẫn, sai sót... để tránh được những lầm lẫn, sai sót đáng tiết ấy cần chú ý thử lại sau khi làm xong từng phép tính.
	Ví dụ: Để kiểm tra xem tỷ số phần trăm của số tiền bán rau và số tiền vốn có đúng là 125% không, các em lấy 125% nhân với số tiền vốn 42.000 đồng. Nếu ra đúng kết quả là số tiền sau khi bán rau là 52.500 đồng thì kết quả tìm được là đúng. Cụ thể: 125/100 x 42.000 = 52.500 đồng. 
2. 3. Đảm bảo phát huy tính sáng tạo, chủ động của học sinh khi học giải toán:
	- Trong quá trình dạy giải toán cho học sinh lớp 5, giáo viên không nên dẫn dắt quá sâu mà nên hướng dẫn tìm hiểu cách giải bằng những câu hỏi khéo léo cho học sinh tự mày mò ra con đường để tìm ra phương pháp giải toán. 
	- Tự sửa bài tập bằng cách đối chiếu với bài của các bạn trong nhóm, bài sửa của lớp. Tự đánh giá bài làm của mình. Biết lắng nghe nhận ra điểm đúng, điểm sai qua bài làm của bạn, biết so sánh và tự sửa được bài làm một cách rõ ràng, sạch đẹp, khoa học.
	- Học và nắm được các dạng bài, học sinh phải chuẩn bị bài ở nhà chu đáo, thi đua học tập giữa các bạn, các nhóm trong lớp. Nắm chắc các tính chất, các quy tắc đã được học. Biết vận dụng các quy tắc để giải bài một cách có hiệu quả.
	- Biết tự đặt ra các câu hỏi để nhờ bạn, nhờ cô giáo giải đáp nhằm làm rõ thêm kiến thức bài học.
	2.4. Trong tiết học giáo viên cần chú ý đến tất cả các đối tượng học sinh:
- Giáo viên phải phân loại được đối tượng học sinh trong lớp, đặc biệt quan tâm đến học sinh yếu kém (chưa thành thạo về kĩ năng giải toán), phải làm cho mọi học sinh trong lớp biết dựa vào đề toán để tóm tắt, phân tích đề một cách chính xác, tìm được cách giải thích hợp. Giáo viên phải nắm được khả năng của từng học sinh, từ đó giúp học sinh phát triển năng lực, sở trường cá nhân.
	- Trong giờ học giáo viên không nên chú ý đến đối tượng học sinh yếu hoặc chú ý đến học sinh khá giỏi, mà cần có sự chú ý đến cả 3 đối tượng nhằm khắc phục tình trạng nhằm chán, mất hứng thú trong giờ học của mọi đối tượng học sinh vì thấy cô chỉ chỉ chú ý bạn mà không để ý gì đến mình. Nếu trong giờ học giáo viên chỉ chú ý đến một đối tượng thì dần dần chất lượng của lớp sẽ đi xuống hoặc là đối tượng học sinh yếu ngày càng yếu, hoặc là đồi tượng học sinh khá giỏi tụt dần dẫn đến không bồi dưỡng được mũi nhọn trong lớp. Vì vậy trong tiết học giáo viên cần quan tâm đến cả ba đối tượng. Do đó, giáo viên phải khéo léo để làm sao cho mọi học sinh trong lớp đề thấy mình được giáo viên quan tâm. Chỉ có như vậy, tiết học mới đạt hiệu quả cao.
	 Chẳng hạn, một bài toán giáo viên cùng cho cả lớp tìm hiểu, tóm tắt, xây dựng kế hoạch giải. Để những học sinh khá giỏi làm xong cách 1 thì các em suy nghĩ cách giải 2, 3. làm như vậy thì mới phát huy hết khả năng của từng em, tạo không khí học tập cho cả lớp tránh trường hợp học sinh khá giỏi làm xong ngồi chơi ảnh hưởng đến các bạn khác trong lớp.
	2.5. Sử dụng linh hoạt các hình thức, phương pháp dạy học:	
	- Việc lựa chọn, phối hợp, vận dụng hợp lí các phương pháp dạy học ở từng tiết dạy Toán có những đặc điểm riêng, không thể áp dụng một cách máy móc, đồng loạt. Không có phương pháp nào là “vạn năng”. Chỉ có sự tìm tòi sáng tạo, sử dụng linh hoạt các phương pháp dạy học mới đạt được thành công trong mỗi bài dạy. Giúp cho học sinh nhận ra các kiến thức đã học hoặc một số kiến thức mới trong nội dung các bài tập đa dạng và phong phú để các em tự khai thác, khám phá tìm tòi và lĩnh hội kiến thức một cách nhẹ nhàng, thoải mái, lôgic, hợp lý, giúp học sinh tự luyện tập, thực hành theo khả năng riêng của mình.
	- Dựa vào đặc thù tâm lý học sinh mau chán nếu tiết học cứ đều đều. Vì thế giáo viên cần luôn thay đổi không khí tiết học bằng những phương pháp, hình thức tổ chức khác nhau cho tiết học sôi nổi, tạo không khí thoải mái, xây dựng môi trường toán học tự nhiên, gắn liền với thực tế, tạo ra sự hỗ trợ giúp đỡ lẫn nhau giữa các đối tượng học sinh. 
 - Giáo viên khuyến khích học sinh có thói quen tự kiểm tra, đánh giá kết quả bài làm của mình, của bạn. Tập cho các em có thói quen tìm nhiều phương án và lựa chọn phương án hợp lý nhất để giải quyết vấn đề của bài tập.
	- Chấm trả bài thường xuyên để nhận ra sự tiến bộ của học sinh, biểu dương khen thưởng kịp thời những học sinh làm tốt, tiến bộ, theo dõi, khích lệ những học sinh còn thụ động, rụt rè chưa mạnh dạn tham gia trong giờ học.
 - Giáo viên khuyến khích học sinh có thói quen tự kiểm tra, đánh giá kết quả bài làm của mình, của bạn. Tập cho các em có thói quen tìm nhiều phương án và lựa chọn phương án hợp lý nhất để giải quyết vấn đề của bài tập.
	- Chấm trả bài thường xuyên để nhận ra sự tiến bộ của học sinh, biểu dương khen thưởng kịp thời những học sinh làm tốt, tiến bộ, theo dõi, khích lệ những học sinh còn thụ động, rụt rè chưa mạnh dạn tham gia trong giờ học.
- Trong giảng dạy phải lắng nghe, thấu hiểu tâm sinh lí của học sinh, động viên khuyến khích kịp thời, nghiêm khắc kiên quyết phê bình thái độ lơ là đối với nhiệm vụ học tập. Luôn tạo cho học sinh sự hứng thú, tính sáng tạo, linh hoạt, tự tin trong làm bài. 
 - Giáo viên cần tổ chức và hướng dẫn chu đáo cho học sinh biết các khái niệm như “Tổng”, “hiệu”, “tỉ”, “quãng đường”, “thời gian”, “vận tốc”; thấy được mối liên quan giữa cái đã biết và cái phải tìm; biết cách giải các dạng bài toán trong chương trình lớp 5. 
 - Tổ chức tốt hình thức học tập theo nhóm, tùy theo tính chất và nội dung của bài học, tiết học mà có thể chia nhóm như sau: phân nhóm học sinh có đủ trình độ (khá, giỏi, trung bình, yếu) để học sinh giúp đỡ lẫn nhau hoặc nhóm theo trình độ (nhóm học sinh khá giỏi, nhóm học sinh trung bình, nhóm học sinh yếu).
 - Học sinh phải được hướng dẫn học tập bằng hình thức “học mà chơi, chơi mà học”, thực hành để phát hiện kiến thức.
* Hiệu quả của sáng kiến:
 Qua quá trình nghiên cứu sáng kiến kinh nghiệm “Phát huy tính tích cực trong dạy học giải toán có lời văn cho học sinh lớp 5”, tôi đã áp dụng một số biện pháp vào thực tế giảng dạy, học sinh lớp tôi đã đạt được những kết quả đáng khích lệ. Những học sinh yếu toán (có lời văn) có sự tiến bộ rõ rệt. Kết quả được thống kê như sau:
* Năm học 2011 - 2012:
Thời gian
TS
HS
Điểm 9-10
Điểm 7-8
Điểm 5- 6
Điểm 1-4
SL
TL
SL
TL
SL
TL
SL
TL
Giữa kì I
27
3
16%
9
36%
6
24%
7
28%
Cuối kì I
27
5
20%
10
40%
6
24%
4
16%
Giữa kì II
27
3
16%
9
36%
6
24%
7
28%
Cuối kì II
27
5
20%
10
40%
6
24%
4
16%
* Năm học 2012 - 2013:
Thời gian
TS
HS
Điểm 9-10
Điểm 7-8
Điểm 5- 6
Điểm 1-4
SL
TL
SL
TL
SL
TL
SL
TL
Giữa kì I
25
3
16%
9
36%
6
24%
7
28%
Cuối kì I
25
5
20%
10
40%
6
24%
4
16%
 Thực tế 

Tài liệu đính kèm:

  • docSKKN(1).doc