Sáng kiến kinh nghiệm Hướng dẫn học sinh lớp 3 học tốt Tập làm văn

Qua thực tế học tập tôi thấy phân môn Tập làm văn là phân môn khó so với các phân môn khác của môn Tiếng Việt. Do đặt trưng phân môn Tập làm văn với mục tiêu cụ thể là: “Hình thành và rèn luyện cho học sinh khả năng trình bày văn bản (nói và viết) ở nhiều thể loại khác nhau như: Miêu tả, kể chuyện, viết thư, tường thuật, kể lại bản tin, tập tổ chức cuộc họp, giới thiệu về mình và những người xung quanh”. Trong quá trình tham gia các hoạt động học tập này học sinh với vốn kiến thức còn hạn chế nên thường ngại nói. Nếu bắt buộc phải nói, các em thường đọc lại bài viết đã chuẩn bị trước. Do đó giờ dạy thường không đạt hiệu quả cao. Xuất phát từ thực tiễn nhưng vậy tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Hướng dẫn học sinh lớp 3 học tốt Tập làm văn”.

 

doc 26 trang Người đăng hoanguyen99 Lượt xem 550Lượt tải 1 Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Hướng dẫn học sinh lớp 3 học tốt Tập làm văn", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ần 29: Viết về một trận thi đấu thể thao.
- Tuần 30: Viết thư.
- Tuần 32: Viết về bảo vệ môi trường.
* Yêu cầu: 
- Trình bày thành đoạn văn, đủ số lượng câu.
- Biết cách chấm câu, viết các câu theo mẫu đã học (ai làm gì?, làm như thế nào?).
 - Biết cách dùng từ ( biết cách sử dụng phép nhân hoá, so sánh). 
II. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ
1. Thuận lợi
* Đối với giáo viên: 
- Năm học 2016 - 2017 là năm học thứ 6 nhà trường tiến hành dạy học theo mô hình VNEN, nên giáo viên đã nắm được yêu cầu của việc đổi mới phương pháp một cách cơ bản, việc sử dụng đồ dùng dạy học đã tương đối hiệu quả.
    - Qua sự chỉ đạo chuyên môn của trường cụ thể là ở các tổ chuyên môn, đặt biệt là phòng Giáo dục rất cụ thể đã có chuyên đề về Dạy Tập làm văn cho học sinh các lớp vì vậy đã góp phần tích cực giúp giáo viên đi đúng nội dung, chương trình phân môn Tập làm văn.
 - Thông qua các tiết dạy mẫu, các cuộc thi, hội thảo, Các đợt tập huấn đã mang lại cho mỗi giáo viên nhiều kinh nghiệm và thành công khi áp dụng vào giảng dạy Tập làm văn.
    - Các phương tiện thông tin đại chúng như: Tivi, đài phát thanh, radio, sách, báo ... Giáo viên đã tiếp cận với đổi mới phương pháp dạy và học Tập Làm Văn.
* Đối với học sinh: 
    - Học sinh lớp 3 ở giai đoạn này rất ham học, đặc biệt hơn lứa tuổi này các em không còn bỡ ngỡ trước môi trường học tập thật sự như ở càc lớp học trước, quan trọng là ở lớp 3 này các em đã được trang bị một khối lượng kiến thức khá lớn ở lớp 1, đặc biệt là các em ở lớp 2 đã nắm vững kiến thức, kĩ năng của phân môn Tập Làm Văn, kĩ năng giao tiếp, kĩ năng tạo lập ngôn bản, kĩ năng kể chuyện miêu tả mà các thầy cô giáo trước đó dã trang bị sẵn. Đây là cơ sở giúp cho các em học tốt phân môn Tập Làm Văn lớp 3. 
    - Môn Tiếng Việt nói chung và phân môn Tập Làm Văn nói riêng có nội dung phong phú, sách giáo khoa được trình bày với kênh hình đẹp, trang thiết bị dạy học hiện đại, hấp dẫn học sinh, phù hợp vơi tâm lý lứa tuổi các em.
2. Khó khăn
* Đối với giáo viên: 
      - Trong môn Tiếng Việt phân môn khó nhất là Tập Làm Văn, nó đòi hỏi người giáo viên phải có kiến thức sâu rộng, phong phú cần có vốn sống thực tế, người giáo viên biết kết hợp linh hoạt các phương pháp trong giảng dạy. Biết gợi mở tò mò, có khả năng sáng tạo, độc lập ở học sinh, giúp các em nói viết thành văn bản.
* Đối với học sinh: 
- Do đặc điểm tâm sinh lý của học sinh lớp 3, lứa tuổi mau nhớ nhưng cũng mau quên, mức độ tập trung thực hiện các yêu cầu của bài học chưa cao.
    - Kiến thức về cuộc sống thực tế của học sinh còn hạn chế, ảnh hưởng đến việc tiếp thu bài học.
- Vốn từ vựng của học sinh còn hạn chế, cũng ảnh hưởng đến việc thực hành luyện tập. Cụ thể là : Các em viết câu trả lời rời rạc, chưa liên kết, thiếu lôgíc, tính sáng tạo trong thực hành viết chưa cao thể hiện ở cách trình bày bố cục bài văn, dấu chấm câu, sử dụng hình ảnh gợi tả chưa sinh động.
- Một số học sinh còn phụ thuộc vào bài văn mẫu, áp dụng một cách máy móc, chưa biết vận dụng bài mẫu để hình thành lối hành văn riêng của mình. Ví dụ: Phần lớn học sinh dùng luôn lời cô hướng dẫn để viết bài của mình.
Với những thuận lợi và khó khăn như trên chúng tôi tiến hành khảo sát chất lượng môn Tập Làm Văn lớp 3 về quá trình dạy và học để thấy các em tiếp thu và vận dụng như thế nào?
3. Chất lượng khảo sát đầu năm.	
Đầu năm học, tôi tiến hành khảo sát chất lượng học tập phân môn Tập làm văn, kết quả như sau: 
Tổng số học sinh
Hoàn thành tốt
Tỉ lệ
Hoàn thành
Tỉ lệ
Hoàn thành ở mức độ vừa cập
Tỉ lệ
Chưa hoàn thành
Tỉ lệ
23
02
8,6%
11
48%
10
43,4%
0
- Để thực hiện được mục tiêu của môn Tiếng Việt nói chung và kiến thức kỹ năng phân môn Tập làm văn, trước hết giáo viên phải hiểu rõ được năng lực nhận thức và cách diễn đạt khi nói, viết của từng học sinh. Qua thực tế giảng dạy và kết quả khảo sát lớp học tôi nhận thấy: Hiệu quả việc học Tập làm văn ở lớp tôi phụ trách so với yêu cầu đề ra còn thấp cụ thể như sau:
	+ Việc quan sát và chi tiết chưa cụ thể chỉ mang tính chung chung.
	+ Việc trình bày miệng còn lúng túng do vốn từ chưa nhiều, khả năng diễn đạt kém.
	+ Đặc biệt khi viết văn các em còn viết sai chính tả, câu văn lủng củng, chưa biết sử dụng các biện pháp nghệ thuật như so sánh, nhân hóa, liên tưởng...... dẫn đến bài viết sơ sài thiếu cảm xúc.
	+ Trình bày bài nói thiếu tự tin.
Từ chất lượng thực tế qua khảo sát, tôi đã nắm được khả năng học tập của từng đối tượng và đi sâu bồi dưỡng cho các em.
III. CÁC BIỆN PHÁP ĐÃ TIẾN HÀNH ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
* Tôi đã sử dụng các biện pháp sư phạm để dạy học phân môn tập làm văn lớp 3 theo định hướng đổi mới hiện nay như sau:
1. Luôn chú trọng “Tích hợp-lồng ghép” khi dạy phân môn Tập làm văn lớp 3
Khi dạy Tập Làm Văn giáo viên cần hiểu rõ tính tích hợp giữa các phân môn trông môn Tiếng Việt như: Tập đọc, kể chuyện, chính tả, luyện từ và câu, tập viết,... để giảng dạy và tạo đà cho học sinh học tập tốt phân môn Tập làm văn mối quan hệ này thể hiện rõ trong cấu trúc của sách giáo khoa: Các bài học được biên soạn theo chủ đề, chủ điểm, hai đơn vị học xoay quanh một chủ điểm ở tất cả các phân môn. Ví dụ: Chủ đề Cộng đồng dạy trong hai tuần gồm các bài tập đọc, luyện từ và câu,... Trong quá trình rèn đọc, khai thác nội dung các bài đọc cung cấp cho học sinh vốn từ về chủ đề Cộng đồng, những câu văn có hình ảnh về chủ đề Cộng đồng. Cụ thể khi dạy bài tập đọc: Kể chuyện Các em nhỏ và cụ già ở tuần 8 giáo viên khai thác nội dung bài theo hệ thống câu hỏi sau:
+ Điều gì gặp bên đường khiến các bạn nhỏ phải dùng lại? (Các bạn gặp một cụ già đứng ven đường, vẻ mặt mệt mỏi, cặp mắt lộ vẻ u sầu).
+ Các bạn quan tâm đến ông cụ như thế nào? ( Các bạn băn khoăn và trao dổi với nhau. Có ban đoán: a) Hay ông cụ bị ốm, b) Hay cụ bị mất cái gì đó. Cuối cùng cả nhóm bạn đến hỏi thăm ông cụ).
+ Vì sao các bạn quan tâm đến ông cụ? Với câu hỏi này có thể các em sẽ trả lời như sau:
- Vì các bạn là những trẻ ngoan.
- Vì các bạn là những người nhân hậu.
- Vì các bạn muốn quan tâm, giúp đỡ ông cụ.
+ Ông cụ gặp chuyện gì buồn? (Cụ bà bị ốm nặng đang nằm trong bệnh viện, khó mà qua khỏi).
+ Vì sao khi trò chuyện với các bạn nhỏ ông cụ thấy lòng mình nhẹ hơn? Với câu hỏi này có thể các em trả lời như sau:
- Ông cảm thấy nỗi buồn được chia sẻ.
- Ông cảm thấy đỡ cô đơn vì có các bạn nhỏ trò chuyện.
- Ông cảm thấy lòng mình ấm lại vì tình cảm của các bạn nhỏ dành cho mình.
Qua hệ thống câu hỏi, giáo viên giúp học sinh bày tỏ được thái độ, tình cảm, ý kiến nhận xét, đánh giá của mình về vấn đề nêu ra trong bài học. Song song với quá trình đó, giáo viên cần hỏi ý kiến nhận xét của học sinh về câu trả lời của bạn để học sinh rút ra câu trả lời đúng nhất phù hợp với tình huống đó, và tạo cho học sinh cách ứng xử hay. 
 Qua câu trả lời của học sinh, giáo viên định hướng cho các em ý thức biết quan tâm chia sẻ với nhũng người trong cộng đồng, giúp các em khi viết các đoạn văn kể về những người thân hoặc người hàng xóm, đoạn văn toát lên được nội dung: Con người phải biết yêu thương nhau, sự quan tâm chia sẻ của những người xung quanh, làm cho mỗi người dịu bớt những lo lắng, buồn phiền, và cảm thấy cuộc sống tốt đẹp hơn.
Như vậy: Như vậy qua tiết học này, học sinh mở rộng vốn từ, rèn lối diễn đạt mạch lạc, lôgíc, câu văn có hình ảnh, cảm xúc. Trên cơ sở đó, bài luyện nói của các em sẽ trôi chảy, sinh động, giàu cảm xúc, đồng thời hình thành cho các em cách ứng sử linh hoạt trong cuộc sống; hình thành cho học sinh kiến thức về mối liên hệ tương thân tương ái giữa mọi người trong cộng đồng ; rèn cho hoc sinh thói quen quan tâm, chia sẻ giúp đỡ mọi người trong cộng đồng 
Cùng với chủ đề này thì Luyện từ và câu tuần 8 cũng cung cấp cho học sinh vốn từ về chủ đề cộng đồng qua hệ thống các bài tập, cụ thể như: Bài 1: Sắp xếp những từ vào ô trống trong bảng phân loại sau. Các từ: Cộng đồng, cộng tác, đồng bào, đồng đội, đồng tâm, đồng hương. Giáo viên giúp các em hiểu nghĩa các từ trên và sắp xếp vào các nhóm từ: Nhóm 1: Những người trong cộng đồng. Nhóm 2: thái độ hoạt động trong công đồng. Từ việc hiểu nghĩa ở bài tập 1, học sinh hiểu ý nghĩa các thành ngữ ở bài tập 2 và bày tỏ thái độ tán thành hay không tán thành thái độ ứng xử trong cộng đồng thể hiện trong các thành ngữ đó.
+ Chung lưng đấu cật (Mọi người cùng chung sức chung lòng để thực hiện một công việc nhiều khó khăn trở ngại)
+ Cháy nhà hàng xóm bình chân như vại (phê phán thái độ thờ ơ, không quan tâm, tương trợ người khi khác gặp khó khăn ).
+ Ăn ở như bát nước đầy (Ca ngợi con người ăn ở cư xử với mọi người có tình, có nghĩa, trước sau không thay đổi).
Như vậy học sinh biết vận dụng những câu thành ngữ về thái độ ứng xử trong cộng đồng khi nói. Viết tập làm văn giao tiếp, giao tiếp ứng xử trong cuộc sống.
 Ở phân môn chính tả tuần 8 các em cũng được luyện viết các bài trong chủ đề Cộng đồng. 
Ví dụ: viết đoạn 4 trong bài các em nhỏ và cụ già: “Cụ ngừng lại và nghẹn ngào nói tiếp .... cho đến ông cũng thấy lòng nhẹ hơn. Khi viết đoạn văn trên học sinh rèn viết chính tả, cách sử dụng các dấu câu; thấy được sự thông cảm, chia sẻ giữa con người với nhau làm dịu bớt nỗi lo láng buồn phiền, tăng thêm cho mỗi người niềm hi vọng, ngị lực sống.  Học sinh vận dụng cái hay, cái đẹp của ngôn từ trong đoạn văn để thể hiện tình cảm, thái độ đánh giá trong từng bài văn cụ thể của chính các em. Tương tự, ở phân môn tập viết tuần 8 các em được làm quen với các thành ngữ, tục ngữ về chủ đề cộng đồng như luyện viết câu ứng dụng: “ Khôn ngoan đối đáp người ngoài, gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau”. Xuất phát từ các phân môn: Tập đọc, Luyện từ và câu, Chính tả, Tập viết xoay quanh chủ đề Cộng đồng, học sinh biết “ Kể về người hàng xóm mà em yêu mến” (TLV lớp 3 tuần 8), và viết được đoan văn hoàn chỉnh, thể hiện tình cảm, thái độ dánh giá đối với người hàng xóm qua việc sử dụng từ ngữ, câu văn có hính ảnh. Ví dụ như các em viết: “ Cô Loan là người hàng xóm bên cạnh nhà em. Cô là một giáo viên Tiểu học, tối tối miệt mài bên giáo án, và chấm bài cho học sinh. Với dáng nhỏ nhắn nhưng rất nhanh nhẹn, giọng cô ấp áp. Em thích nghe nhất là khi cô hát. Cô thật xứng danh là một giáo viên giỏi của trường”.
* Như vậy, khi dạy tất cả các phân môn: Luyện từ và câu, chính tả, tập đọc,...đều nhằm mục đích giúp học sinh có kĩ năng hình thành văn bản, ngôn bản. Do đó, tích hợp lồng ghép phương pháp đặc trưng khi dạy phân môn Tập làm văn lớp 3. 
2. Dạy học theo quan điểm giao tiếp
      Dạy học theo quan điểm giao tiếp là hình thành cho học sinh kĩ năng diễn đạt thông qua các bài học, hình thành thói quen ứng xử trong giao tiếp hàng ngày với thầy, cô, cha mẹ, bạn bè, và mọi người xung quanh.
      Vận dụng phương pháp dạy học theo quan điểm này, giáo viên tạo cho học sinh nhiều cơ hội thực hành, luyện tập, không quá nặng về lý thuyết như phương pháp dạy truyền thống. Do vậy học sinh hào hứng tham gia vào các hoạt động học tập, tích cực sáng tạo trong làm văn. Việc hình thành và rèn luyện các kĩ năng nghe, nói, đọc, viết cho học sinh thông qua phân môn Tập Làm Văn đảm bảo đạt được hiệu quả tối ưu. Ví dụ: Giảng dạy bài tập nghe, tập nói, và kể lại câu chuyện “ Giấu cày” Tập làm văn tuần 1: Qua việc kể mẫu của giáo viên, quan sát tranh, gợi ý sách giáo khoa... Học sinh kể nội dung câu chuyện như sau: Có một người đang cày ruộng thì vợ gọi về ăn cơm. Bác ta liền hét to trả lời : 
- Để tôi giấu cái cày vào bụi đã.
Về nhà bác liền bị vợ trách: 
- Ông giấu cái cày mà hét to thế, kẻ gian biết chỗ nó lấy mất cái cày thì sao. Lát sau, cơm nước xong, bác ta ra ruộng, quả nhiên cái cày bị mất. Bác ta liền chạy một mạch về nhà, nói thầm vợ:
- Nó lấy mất cái cày rồi.
Qua giao tiếp giữa giáo viên với học sinh, giữa học sinh với nhau (kể cho nhau nghe), việc kể lại nội dung câu chuyện trước lớp giúp các em thấy được sự phê phán hóm hỉnh, hài hước và kể lại nội dung câu chuyện với giọng kể, cử chỉ, điệu bộ gây cười ở ngưòi nghe, nét mặt phù hợp, nâng tính kịch tính câu chuyện lên cao hơn. Song song với việc rèn luyện kĩ năng nghe, nói học sinh rèn kĩ năng viết: Nắm kĩ thuật viết, luật viết câu văn, đoạn văn hoàn chỉnh, đúng về ngữ pháp, bố cục văn cảnh hoặc môi trường giao tiếp. Mỗi bài văncủa học sinh không đơn thuần là kể, tả ngắn về con người, sự vật, sự việc thông qua đó thể hiện suy nghĩ, cảm xúc, đánh giá, thái độ yêu – ghét, trân trọng hoặc phê phán các em. Thông qua bài viết của các em về một vấn đề nào đó. Bổ trợ cho việc rèn kĩ năng nghe – nói trong tiết tập làm văn, phần kể chuyện của tiết tập đọc kể chuyện cũng chú trọng rèn kĩ năng giao tiếp.
 Ví dụ: Dạy tập đọc kể chuyện tiết 2, bài “Đất quý đất yêu” tuần 11: Nhiệm vụ của học sinh là: Quan sát tranh, sắp xếp tranh theo trình tự nội dung câu chuyện Đất quý đất yêu. Sau đó dựa vào tranh kể lại câu chuyện đúng nội dung, ngắn gọn, từ ngữ xúc tích, dễ hiểu, biết kết hợp lời nói với cử chỉ điệu bộ để câu chuyện thêm hấp dẫn sinh động; giúp người nghe thấy được phong tục tập quán của người Ê-ti-ô-pi-a: Họ coi đất đai là thứ thiêng liêng, cao quý nhất. thông qua kể lại câu chuyện theo tranh, học sinh hình thành và rèn luyện khả năng diễn đạt, phục vụ tốt cho bài tập nói của tiết Tập làm văn.
* Tóm lại: Học sinh rèn kĩ năng quan sát, nói-viết, rút ra những nét điển hình, đặc trưng của từng vùng miền, thấy được vẻ đẹp đáng yêu, đáng tự hào của mỗi vùng miền, từ đó hình thành nuôi dưỡng tình cảm gắn bó, yêu thương, ý thức giữ gìn, xây dựng quê hương đất nước. Ngoài ra, mỗi giáo viên cần chú trọng vận dụng phương pháp dạy học theo quan điểm giao tiếp, khơi dậy ở các em những cảm xúc, đánh thức tiềm năng cảm thụ văn học và có nhu cầu thể hiện, bày tỏ cảm thụ đó với người khác. Như vậy, Mỗi bài nói bài viết sẽ chính là tâm hồn tình cảm của các em, các em sẽ thêm yêu văn - yêu cái hay cái đẹp, yêu tiếng Việt - giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt. 
3. Tổ chức tốt việc quan sát, hướng dẫn học sinh cách dùng từ, giọng kể, điệu bộ khi làm văn nghe - nói - viết.
Với đặc điểm vốn từ còn hạn chế, nên học sinh lớp 3 gặp nhiều khó khăn trong việc nghe – nói - viết - kể lại câu chuyện bằng lời văn của mình. Do vậy, giáo viên cần tổ chức tốt hoạt động quan sát từng đường nét, màu sắc, hình ảnh, nội dung thể hiện của tranh. học sinh cảm nhận được nét đẹp của cảnh vật, con người và muốn bày tỏ trao đổi với bạn, với thầy cô.
Để làm tốt hoạt động này, trước hết giáo viên chú ý cho học sinh sử dụng gợi ý trong sách giáo khoa, lắng nghe cô kể, bạn kể,để nhớ được các ý chính của nội dung câu chuyện. Giáo viên chú trọng về lời văn kể và nghệ thuật sử dụng ngôn từ. Giáo viên cần hướng cho các em cách chon lựa, sử dụng từ ngữ, hình ảnh diễn đạt sao cho dễ hiểu, sinh động. Có như vậy người nghe đọc sẽ dễ dàng hình dung, tưởng tượng, nắm bắt được sự việc,nhất là tình cảm của các em muốn thể hiện qua bài nói, bài viết. Người nghe, người đọc tuy không trược tiếp nhìn diện mạo của nhân vật, xem bối cảch của sự việc qua hình ảnh miêu tả, so sánh cùng với những tình cảm, thái độ, sự đánh giá của các em. Đó chính là điểm mạnh của nghệ thuật sử dụng ngôn từ.
*Ví dụ: Dạy tập làm văn tuần 12. Cụ thể ở bài tập 2: yêu cầu học sinh viết đoạn văn quan sát tranh (ảnh) về một cảnh đẹp ở nước ta. 
Thông qua việc quan sát tranh (ảnh) về một cảnh đẹp ở nước ta, Giúp học sinh nắm nội dung của tranh (ảnh), thấy vẻ đẹp của tranh (ảnh), từ đó các em lựa chon từ ngữ thích hợp để nói và viết thành đoạn văn, giúp cho người nghe - đọc tuy không quan sát tranh (ảnh) nhưng vẫn thấy được vẻ đẹp của danh lam thắng cảnh mà học sinh nói đến. Thêm vào đó, những yếu tố phi ngôn ngữ như: Điệu bộ, nét mặt, giọng điệu của các em khi nói sẽ làm tăng tính hấp dẫn, tính thuyết phục đối với người nghe. Do đó, giáo viên cũng cần khuyến khích các em rèn luyện khả năng sử dụng những yếu tố phi ngôn ngữ này.
4. Sử dụng linh hoạt các hình thức hoạt động trong tiết dạy Tập làm văn theo hướng đổi mới
Việc tổ chức tốt các hình thức dạy học nhằm cuốn hút học sinh vào các hoạt động học tập một cách chủ động và tích cực. Giáo viên sử dụng các hình thức tổ chức dạy học như: Học sinh thảo luận nhóm, đàm thoại với nhau hoặc với chính các thầy cô, hoặc hoạt động các nhân (độc thoại) về một vấn đề. Các hình thức tổ chức hoạt động học có thể là: Đóng các hoạt cảnh, vận dụng các trò chơi trong tiết học, các cuộc thi tiếp sức,... Qua đó học sinh lĩnh hội kiến thức, tích cực, tự giác “học mà chơi, chơi mà học”. Không khí học tập thoải mái khiến học sinh mạnh dạng, tự tin khi nói. Các em dần có khả năng diễn đạt, phát biểu ý kiến, đánh giá trước đông người một cách lưu loát, rành mạch, dễ hiểu.
So sánh với phương pháp dạy tập làm văn lớp 3 truyền thống: Mỗi tiết tập làm văn chú trọng đến mục tiêu là hình thành bài văn theo một đề tài thuộc một thể loại văn nào đó dưới dạng nói hoặc viết. tiết học diễn ra theo tiến trình: Giáo viên hướng dẫn làm bài dựa theo dàn bài thuộc thể loại chung, đưa ra các câu hỏi gợi ý... khiến cho học sinh dễ nhàm chán, có cảm giác bị bắt buộc theo khuôn mẫu không khuyến khích được học sinh nói, viết những cảm xúc, nhận xét, đánh giá, sự miêu tả của chính các em. Trong chương trình sách giáo khoa lớp 3, mỗi tiết Tập làm văn là một hệ thống bài tập có tính định hướng, gợi mở, với nhiều dạng bài: Nghe-nói, nói- viết, nghe-nói-viết... Vì vậy, giáo viên vẫn bám sát mục đích, yêu cầu của tiết dạy, bài dạy nhưng linh hoạt, chủ động hơn trong cách tổ chức hoạt động dạy-học, phân bổ thời gian hợp lý, vừa tránh được những nhược điểm nêu trên vừa tạo được không khí học tập phát huy được tính tích cực, sáng tạo của học sinh.
Ví dụ: Tiết tập làm văn (tuần 11) với hệ thống bài tập như sau:
Bài 1: Nghe kể lai câu chuyện “Tôi có đọc đâu”. Yêu cầu học sinh nghe và kể lại câu chuyện. Giáo viên sử dụng các hình thức dạy học:
- Giáo viên kể mẫu nội dung câu chuỵên
- Thảo luận theo nhóm, theo cặp, học sinh dựa vào gợi ý sách giáo khoa, tranh và việc nghe giáo viên để kể lại nội dung câu chuyện cho nhau nghe.
- Đại diện từng nhóm kể trước lớp.
- Học sinh nhận xét, bổ sung, đánh giá.
Cách tổ chức các hình thức hoạt đông  nêu trên huy động được tất cả học sinh tham gia vào hoạt động học tập, tạo được không khí thi đua học tập giữa từng học sinh với nhau và giữa các nhóm học sinh.
Bài 2: Nói về quê hương em hoặc nơi em đang ở. Yêu cầu học sinh làm việc cá nhân với vở bài tập. Giáo viên sử dụng các hình thức dạy học sau:
- Cá nhân học sinh làm trong vở bài tập.
- Học sinh nhận xét bài làm của bạn.
- Giáo viên nhận xét, bổ sung, đánh giá.
( Học sinh đang tổ chức cho các bạn chia sẻ bài viết về quê hương )
Tóm lại ở hai bài tập này giáo viên nên sử dụng và phối hợp linh hoạt các hình thức dạy tập làm văn lớp 3 theo hướng đổi mới, tạo được hứng thú cho học sinh, học sinh tham gia các hoạt động học một cách hào húng, tích cực, sáng tạo.
Ví dụ: Tiết Tập làm văn (tuần 22) với hệ thống bài tập.
Bài 1: Kể về người lao động trí óc mà em biết.
- Giáo viên cho hoc sinh làm việc cá nhân (làm trong vở bài tập).
- Trao đổi nhóm, kể cho nhau nghe về người lao động trí óc.
- Sau khi thống nhất các em cử đại diện nhóm lên trình bày.
- Học sinh các nhóm khác nghe nhận xét, bổ sung.
( Hoạt động chia sẻ trong nhóm trong tiết Tập làm văn lớp 3b)
Bài 2: Viết những điều mà em vừa kể vào đoạn văn.
- Học sinh phải biết viết những điều em vừa kể thành đoạn văn với câu văn đúng, hay, biết sử dụng hình ảnh, từ ngữ phù hợp.
* Như vậy, trong một tiết học, học sinh vừa luyện kể (luyện nói), vừa luyện viết đoạn văn (văn bản), nên việc giáo viên vận dụng linh hoạt các hình thức dạy học trong dạy tập làm văn và nhiệm vụ cần thiết. 
5. Dạy học hướng vào học sinh và chú trọng các hình thức dạy học cá nhân. 
Dạy Tập làm văn theo hướng tập trung vào học sinh không phải chỉ tìm ra một câu trả lời có sẵn mà học sinh phải đưa ra được câu trả lời trên cơ sở suy nghĩ và hiểu biết của chính các em. Quá trình tư duy đó đòi hỏi học sinh phải vận dụng những vốn tri thức, hiểu biết phù hợp với vấn đề đặt ra trong câu hỏi; phân tích, sắp xếp những tri thức đó, đưa ra với vấn đề đặt ra trong câu hỏi ; phân tích, sắp xếp những tri thức đó, đưa ra những kết luận, phương án trả lời tốt nhất. Nói ngắn gọn lại: Học sinh tìm câu trả lời qua việc thu thập, sàng lọc thông tin và phân tích dữ kiện.
Ví dụ: Dạy Tập làm văn tuần 5. Có bài tập như sau : Tập tổ chức cuộc họp.
- Học sinh chọn nội dung cuộc họp cho phù hợp.
- Xác định mục đích cuộc họp, nguyên nhân cuộc họp.
- Người điều hành cuộc họp thống nhất ý kiến, thống nhất phương án giải quyết vấn đề, giao việc cho từng thành viên.
* Như vậy, thông qua một số tiết Tập làm văn đã phát huy tính độc lập sáng tạo của học sinh, giáo viên chỉ là người tổ chức, định hướng cho học sinh làm bài. 
6. Dạy học phối kết hợp các hoạt động ngoài giờ lên lớp
6.1. Dạy văn thông qua các hoạt động ngoài khoá: Giúp học sinh có những hiểu biết ngoài kiến thức được học trong chương trình chính khoá. Do đó việc phối kết hợp với các hoạt động ngoài gìơ lên lớp rất cần thiết. Qua các hoạt động ngoài giờ, học sinh được rèn luyện bằng nhiều hình thức khác nhau, có nội dung liên quan đến bài học của các em. Giáo viên giảng dạy cần có sự phối kết hợp chặc chẽ với giáo viên tổng phụ trách, thông qua các buổi chào cờ nói về gương người tốt việc tốt, tổ chức các hoạt động: Thi giai điệu tuổi hồng, tập diễn các tiểu phẩm, thi kể chuyện, đọc thơ, thi các môn năng khiếu,... Hoặc thông qua các buổi lễ khai giảng học sinh có thể viết những cảm xúc, những kỉ niệm đẹp của các em về ngày đầu tiên đi học (bài học tuần 6)... Hay qua các buổi lễ kết nạp đội viên TNTP Hồ Chí Minh, giúp các em viết tốt hơn đơn xin vào Đội, sinh hoạt trong các câu lạc bộ, tổ chức của Đội ... Ví dụ: Tham dự Hội thi tim hiểu về Đội .Từ thực tế đó, học sinh sẽ có thêm hiểu biết về Đội TNTP Hồ Chí Minh, Giúp các em viết tốt hơn đơn xin vào đội (tiết Tập làm văn tuần 2), với yêu cầu: Em hãy viết đơn xin vào đội với mẫu in sẵn.
	( Hoạt động ngoài giờ cho trẻ khám phá mô hình biển đảo nước ta )
( Tổ chức cho học sinh quan sát và trải nghiệm về vẻ đẹp quanh em)
6.2. Dạy tập làm văn thông qua các hoạt động đọc sách báo truyện
Kích

Tài liệu đính kèm:

  • docSKKN_lop_3.doc