Sáng kiến kinh nghiệm Công tác chủ nhiệm - Phạm Văn Nông

I. PHẠM VI ĐỀ TÀI:

 Với khả năng và trình độ cho phép. Tôi xin chọn tập thể học sinh lớp 2 Điểm trường Kênh Xáng thuộc trường Tiểu học Ngô Quyền do tôi chủ nhiệm.

 Xác định rõ quan điểm khoa học trong các phương pháp nhằm giúp HS chóng tiến bộ, đạt kết quả cao.

 II. NHIỆM VỤ CỦA ĐỀ TÀI:

 - Nêu lên được ý nghĩa tầm quan trọng của công tác chủ nhiệm lớp.

 - Tìm hiểu những phương pháp hay, phù hợp với tâm lý lứa tuổi và đối tượng học sinh nhằm giáo dục và đào tạo các em thành con người phát triển toàn diện.

 

doc 10 trang Người đăng hoanguyen99 Lượt xem 710Lượt tải 0 Download
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Công tác chủ nhiệm - Phạm Văn Nông", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PhÇn A: PHẦN MỞ ĐẦU
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
	Vì sự nghiệp đào tạo con người mới XHCN, vì sự nghiệp giáo dục, đào tạo của nền giáo dục Việt Nam nói chung và giáo dục tỉnh nhà, huyện nhà nói riêng. Thấm nhuẫn nguyên lí của Đảng về việc giáo dục, về đào tạo cho thế hệ tương lai của chủ nhân của đất nước. Hiểu rõ mục đích của nhà trường Tiểu học là tạo ra những con người có phẩm chất đạo đức tốt đẹp, phát triển toàn diện về năng lực. Muốn đạt được thành công đó. Ngay từ ban đầu phải xây dựng cho các em thành một khối thống nhất, nhất trí, thân ái, đoàn kết thương yêu nhau, có tác phong đúng đắn, mang bản sắc truyền thống ngàn đời, toả hương thơm ngát của dân tộc Việt Nam.
	Là người giáo viên tôi nhận thức hết sức sâu sắc lời dạy bảo ân cần của Bác: “Non sông Việt Nam có trở nên vẻ vang hay không, dân tộc Việt Nam có sánh vai cùng các cường quốc năm châu hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các cháu”. Đó là trách nhiệm, là niềm vinh quang, tự hào. Tôi suy nghĩ phải làm gì đây để xây dựng và hình thành cho các em phẩm chất, trình độ tốt ngay từng giờ, từng ngày học và ý thức trách nhiệm của các em đối với bản thân, với tập thể lớp, trường và cộng đồng xã hội.
	Các em học sinh Tiểu học ngây thơ, hồn nhiên trong trắng như tờ giấy trắng. Tôi hết sức tự hào khi mình là người đầu tiên được cầm bút viết lên tờ giấy trắng đó. Niềm tự hào bao giờ cũng đi đôi với trách nhiệm đối với các em, với giáo dục và xã hội.
	 Lương tâm của nhà sư phạm mách bảo tôi phải uốn nắn kịp dần cho các em hình thành có ý thức nội quy, nề nếp đã được quy định. Quan tâm, động viên, giúp các em từ việc nhỏ đến việc lớn. Làm hành trang cho các em mang theo vào cuộc sống sau này. Hiểu rõ như vậy, do đó tôi chọn đề tài này để viết sáng kiến kinh nghiệm.
PhÇn B: PhÇn NỘI DUNG
I. PHẠM VI ĐỀ TÀI:
	Với khả năng và trình độ cho phép. Tôi xin chọn tập thể học sinh lớp 2 Điểm trường Kênh Xáng thuộc trường Tiểu học Ngô Quyền do tôi chủ nhiệm.
	Xác định rõ quan điểm khoa học trong các phương pháp nhằm giúp HS chóng tiến bộ, đạt kết quả cao. 
	II. NHIỆM VỤ CỦA ĐỀ TÀI:
	- Nêu lên được ý nghĩa tầm quan trọng của công tác chủ nhiệm lớp.
	- Tìm hiểu những phương pháp hay, phù hợp với tâm lý lứa tuổi và đối tượng học sinh nhằm giáo dục và đào tạo các em thành con người phát triển toàn diện.
III. NHỮNG QUAN ĐIỂM KHOA HỌC SẼ VẬN DỤNG:
Để nói lên những quan điểm khoa học trong nghiên cứu, tôi xin trình bày lại vai trò, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của gháo viên chủ nhiệm (GVCN) ở bậc Tiểu học.
1.Vai trò và vị trí:
- Là người thay mặt cha mẹ HS quản lý toàn diện tập thể HS lớp mình, phấn đấu theo mục tiêu chung của nhà trường.
- Là người lãnh đạo, tổ chức điều hành, kiểm tra mọi hoạt động và các mối quan hệ ứng xử thuộc lớp mình phụ trách.
- Là nhân vật trung tâm để hình thành nhân cách cho HS và là cầu nối giữa nhà trường và xã hội.
2. Chức năng:
- Xây dựng tổ chức lớp thành một đơn vị vững mạnh.
- Tổ chức điều khiển lãnh đạo các hoạt động giáo dục nhằm nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện.
- Thiết lập và phát triển mối quan hệ với các lực lượng giáo dục trong và ngoài trường để giáo dục HS.
3. Nhiệm vụ:
- Tìm hiểu và nắm vững HS trong lớp về mọi mặt giáo dục để đẩy mạnh sự tiến bộ của lớp.
- Cùng các giáo viên khác và cán bộ Đoàn, Đội phối hợp nhanh chóng, nhất là biện pháp đẩy mạnh một tập thể vững mạnh, giúp đỡ và tạo điều kiện cho đội TNTP Hồ Chí Minh của lớp hoạt động và phát huy ý thức làm chủ, tự giác và chủ động của học sinh trong các hoạt động giáo dục.
- Công tác chặt chẽ với gia đình học sinh trong nhiệm vụ giáo dục các em.
- Phối hợp với các giáo viên khác với Đội TNTP với gia đình học sinh tổ chức nhận xét đánh giá và xếp loại học sinh vào cuối kì và cuối năm học theo nội dung và tiêu chuẩn quy định của Bộ Giáo dục, đề nghị khen thưởng học sinh, đề nghị danh sách HS được lên lớp, phải ở lại lớp và danh sách được giao nhiệm vụ học tập hoặc rèn luyện thêm trong hè.
- GVCN phải báo cáo thường kì với hiệu trưởng về tình hình mọi mặt của lớp. Khi có thay đổi GVCN lớp, khi HS chuyển lên lớp trên thì GVCN cũ phải bàn gaio cụ thể tình hình mọi mặt với GVCN mới.
4. Quyền hạn:
- Được cung cấp phương tiện và tài liệu cần thiết để tiến hành nhiệm vụ.
- Được tham dự và biểu quyết trong hội đồng kỷ luật và khen thưởng khi các tổ chức này giải quyết những vấn đề liên quan đến học sinh của lớp mình phụ trách. 
- Được quyền cho học sinh nghỉ học, được quyền đề nghị khen thưởng và thi hành kỷ luật học sinh trong phạm vi thể lệ quy định.
5. Quy trình công tác của GVCN lớp:
Để đảm bảo công tác chủ nhiện lớp đạt hiệu quả cao, người giáo viên chủ nhiệm lớp cấp I phải tuần thủ một số quy định sau:
a. Điều tra đối tượng học sinh: Cụ thể là tìm hiểu tình hình mọi mặt của học sinh lớp mình, hoàn cảnh đặc biệt, đặc điểm, cá tính, điều kiện sống... của từng em. Đối với những học sinh có dạng cá biệt để có những biện pháp giáo dục thích hợp.
b. Xây dựng kế họch chủ nhiệm: Kế hoạch công tác chủ nhiệm lớp phải căn cứ vào kế hoạch của nhà trường và tình hình thực tế của lớp. Cần xây dựng kế hoạch cả năm, kế hoạch học kỳ, kế hoạch tháng và kế hoạch tuần.
c. Chỉ đạo tập thể học sinh thực hiện kế hoạch:
- Bồi dưỡng năng lực tổ chức, chỉ đạo và thực hiện kế hoạch cho đội ngũ cán bộ lớp, để các em làm tốt nhiệm vụ được giao.
- Tổng kết đúc rút kinh nghiệm sau mỗi đợt công tác, có khen, có chê đối với tập thể cùng như cá nhân.
- Trong khi điều hành công việc của lớp mình, mỗi GVCN phải có một số công tác chủ nhiệm để ghi chép theo dõi hằng ngày.
IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm thực hiện trong quá trình nhận lớp, để nhằm rút ra cho mình một số kinh nghiệm trong công tác chủ nhiệm lớp.
- Phương pháp đàm thoại sử dụng trong việc tham khảo kinh nghiệm của GVCN lớp, của HS và phụ huynh HS cùng tham khảo ý kiến của nhân dân địa phương về tình hình đời sống, kinh tế và suy nghĩ của họ về giáo dục.
- Ngoài ra trong quá trình nghiên cứ tôi còn sử dụng các phương pháp quan sát phương pháp nghiên cứu sản phẩm của đối tượng... Để thấy được phẩm chất bên trong và hình thức hoạt động bên ngoài của học sinh từ đó hướng tới một mục tiêu giáo dục có hiệu quả.
V. QUÁ TRÌNH NGHIÊN CỨU VÀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU:
1. Đặc điểm và tình hình của lớp:
Năm học 2015 - 2016 nhà trường phân công tôi chủ nhiệm và giảng dạy lớp 2 Điểm trường Kênh Xáng . Theo tôi được biết, học sinh đi học đường sá đi lại khó khăn một số học sinh nhà xa tận trong rừng sâu nên gây ảnh hưởng đến kết quả học tập của các em. Sau khi nhận lớp tôi đã kiểm tra và phân loại các trình độ của HS trong lớp. 
Học sinh là con em có điều kiện kinh tế gia đình khó khăn, việc đầu tư và chăm lo cho con cái học hành của các bậc cha mẹ chưa được quan tâm nhiều.
Chỗ ở các em ở thưa thớt chen lẫn trong rừng, trong vuông nuôi tôm một số gia đình của các em học sinh nằm rải rác và còn xa trường nên việc huy động và duy trì số số lượng học sinh chưa được đảm bảo.
2. Cách tiến hành:
Đầu tiên tôi đã tim hiểu tình hình học sinh của lớp về mọi mặt như hoàn cảnh gia đình học sinh. Tôi đã trực tiếp đến gặp mặt phụ huynh học sinh lớp mình để biết được điều kiện sống của học sinh. Mục đích đi thăm gia đình phụ huynh nhằm qua đàm thoại với phụ huynh để biết được phụ huynh quan tâm đến học sinh về việc đi học như thế nào? Dò xét xem tư tưởng của phụ huynh về giáo dục như thế nào? Quan tâm đến việc học tập của con cái mình ra sao? Tôi đã tìm hiểu nhằm để biết được điều kiện sống của học sinh, biết được đặc điểm của học sinh để có biện pháp giáo dục hữu hiệu nhất, đặc biệt là học sinh cá biệt. Đi từng gia đình học sinh nhằm quan sát địa bàn nơi ở của học sinh. Trong nhà có giành riêng góc học tập cho các em không? Nếu có thì đã làm như thế nào? Từ những điều đặt ra đó tôi đã khuyến khích các em học lại theo nhóm. Cùng trao đổi cho nhau học tập để cùng nhau tiến bộ.
Từ thực tế nắm bắt được tình hình của học sinh tôi xây dựng một kế hoạch chủ nhiệm. Kế hoạch này ngoài việc căn cứ vào kế hoạch của nhà trường, phải dựa vào tình hình thực tế của lớp, xây dựng kế hoạch cả năm, kế hoạch học kỳ, tháng, tuần. Có được kế hoạch thì tôi đi vào chỉ đạo học sinh thực hiện theo kế hoạch đã định. Trước hết phải chọn những học sinh có năng lực làm ban cán sự lớp. Đội ngủ này sẽ giúp giáo viên động viên, đôn đốc, kịp thời uốn nắn, kiểm tra đối tượng học sinh. Sau mỗi đợt công tác, giáo viên tổng kết lại cả quá trình và rút ra cho mình bài học kinh nghiệm. Từ đó biết được ưu, khuyết điểm của lớp để khắc phục và đưa ra hướng hoạt động mới. Những vấn đề trong hướng dẫn lớp hoạt động, giáo viên ghi vào sổ chủ nhiệm những gì mình theo dõi được ở học sinh. Từ đó đánh giá và giáo dục học sinh tốt hơn.
Từ khi nhận lớp và đi thăm gia đình phụ huynh học sinh, tôi đã hiểu được phần nào ở mỗi học sinh, nên đã lập nên một kế hoạch: Ở trước lớp tôi động viên và khuyên nhủ các em về vệ sinh lớp trước khi vào học, vệ sinh cá nhân sạch sẽ. Về tác phong tư tưởng, các em còn vụng dại, sợ sệt không giám nói, sinh hoạt còn mang nặng ở nhà, ăn mặc còn bẩn. Vì thế tôi đã gần gũi với các em, hoà mình vào tập thể lớp như: gài cúc áo, xắn tay áo, chải đầu, sửa quân áo... cho các em. Tôi đã giành thời gian giữa giờ để tập hát, kể chuyện cho các em một số câu chuyện bổ ích. Để tạo cho các em hứng thú trong học tập, sự hoà đồng giữa giáo viên và học sinh, rút ngắn lại khoảng cách thầy, trò. Trước đây các em xa lạ với tôi bao nhiêu thì các em càng gần gũi với tôi bấy nhiêu.
Trong các giờ lên lớp tôi luôn luôn xác định rằng khi học là phải có một nề nếp.
- 15 phút đầu giờ tôi chữa bài tập, ôn lại bài cũ, tập hát cho các em...
- Thực hiện dạy bài mới, ôn bài cũ qua từng giai đoạn, từng thời kì. Với phương pháp từ thấp đến cao, từ nhỏ đến lớn.
- Khi ngồi học bàn ghế phải ngay ngắn, ngồi vuông góc, ngồi thẳng hàng, bàn nào có em nói chuyện là mời em đó lên ngồi bàn trên.
- Các tổ trưởng phải theo dõi trong tổ của mình ai nói chuyện riêng, không làm bài tập, không học bài cũ, đi học muộn, nghỉ học không có phép...bạn nào hằng say phát biểu, xây dựng bài.
- Các tổ trưởng phải theo dõi các bạn trong tổ của mình. Cuối tuần thống kê tuyên dương những em có ý thức tốt, em nào mắc phải khuyết điểm tự đứng dậy nhận lỗi trước lớp và giáo viên chủ nhiệm. Đây là một việc làm mang tính giáo dục, các em tự biết nhận lỗi, tự nhận ra khuyết điểm của mình. Qua những việc làm như vậy, tôi thấy các em tiến bộ rõ rệt. Theo tôi nghĩ, nhiều lúc nghiêm túc quá sẽ dẫn đến không khí căng thẳng trong giờ học. Trong khi học bài nếu học sinh phát biểu tôi luôn chú ý động viên dù trả lời không đúng hoặc đúng ít để tạo cho lớp mình có một phong trào học tập hằng say và sôi động. Do đó tôi thấy rằng với những việc làm như thế, mỗi giờ dạy của tôi đối với lớp có phần sôi động hẳn lên, tạo cho cả hai phía giáo viên và học sinh. Giáo viên thì hứng thú giảng dạy, còn học sinh thì hứng thú học tập và kết quả truyền thụ và tiếp thu của các em khá cao. 
- Ngoài việc dạy kiến thức tôi luôn quan tâm đến việc ghi chép bài vở của học sinh, xem các em viết bài như thế nào? Em nào ghi chưa hợp lý và chưa khoa học, tôi đã hướng dẫn các em ghi chếp đầy đủ và khoa học hơn.
- Hướng dẫn các em cách cầm sách khi đọc bài.
- Hướng dẫn các em trả lời các câu hỏi phải có đầu, đuôi.
- Luôn quan tâm giúp đỡ các em học yếu.
- Trong khi ngồi học ở lớp, tôi luôn nhắc nhở và quan sát tư thế ngồi học của các em, để kịp thời sửa chữa cho các em ngồi đúng tư thế.
- Khi giảng dạy tôi luôn dùng những kí hiệu trên bảng để điều khiển lớp, nhằm hạn chế sự làm việc riêng của học sinh, giáo viên khỏi phải nói nhiều và thói quen trong học tập. Trong khi dạy học tôi rất chú ý các em yếu hoặc tính trầm lặng ít phát biểu. Đối với các em ít nói, tôi thường gọi các em đứng dậy nhắc lại những câu trả lời của bạn hoặc đọc lại những câu ghi trên bảng để tạo cho các em thêm mạnh dạn và nói lưu loát hơn trước đám đồng. Còn các em yếu kém tôi luôn chú ý kèm cặp và dìu dắt kĩ hơn các em khác. Luôn động viên và khuyến khích các em dù có những việc làm nhỏ. Từ đó tôi thấy các em mạnh dạn hơn và kết quả nâng cao. Thuận lợi thì có nhưng khó khăn cũng chẳng ít. Tôi đã suy nghĩ nhiều trong vấn đề này và tôi đã thực hiện theo phương án.
Trên đây là công việc đặt ra trong quá trình chủ nhiệm lớp. 
Còn những lúc ngoài giờ lên lớp, tôi phân chia thời gian còn lại, tôi luôn gần gũi các em, quan sát các em làm việc và học tập thế nào? Khi thấy các tiết học ở trên các em chưa hiểu, tôi phải tranh thủ giảng thêm ngoài giờ cho các em. Ngoài công việc trên, tôi còn lập nên kế hoạch để học sinh thực hiện, tạo nên một nề nếp thường xuyên, ổn định đúng thời gian, ở nhà cũng như ở trường. Vấn đề tôi quan tâm trên kể cả giờ lên lớp hay không lên lớp, tôi luôn quan tâm, gần gũi, thân thiện với các em. Là một GVCN lớp đã xác định vị trí của mình trong tập thể học sinh, cho nên ngoài việc đó phải khuyến khích các em. Tôi luôn xây dựng phẩm chất đạo đức cho mình, xứng đáng phải là một tấm gương sáng về phẩm chất đạo đức để các em noi theo. Tôi luôn rèn luyện nghiệp vụ để giờ lên lớp đạt kết quả cao. Từ đó việc điều khiển học sinh được dễ hơn và để học sinh dựa vào mình để học tập và tu dưỡng.
3. Kết quả:
- Qua thời gian tôi được phân công giảng dạy và chủ nhiệm lớp 2 tôi đã kiểm tra đầu năm căn cứ vào kết quả kiểm tra cuối năm học trước và phân loại các trình độ của học sinh. Từ đầu năm học đến giữa học kỳ I theo chương trình tôi nhận thấy lớp có những chuyển biến rõ nét hơn so với đầu năm.
- Những em yếu nay đã khá hơn.
- Những em nhút nhát nay đã mạnh dạn hẳn lên.
- Sỉ số học sinh được duy trì tốt.
- Cả lớp đoàn kết thân ái.
PHẦN C: PHẦN KẾT LUẬN
Bài học kinh nghiệm:
Trên đây là bài sáng kiến kinh nghiệm, đó cũng là những việc làm cụ thể của tôi trong suốt quá trình làm công tác chủ nhiệm.
Tóm lại những biện pháp nêu trên, chúng ta cần nhận thấy nó không quá nặng nề đối với các em. Giáo viên chúng ta cần thường xuyên theo dõi, nhắc nhở, làm gương nhằm giúp các em hình thành thói quen hành vi văn minh trong cuộc sống . Nếu bản thân giáo viên xem nhẹ những việc làm trên thì nề nếp kỉ cương khó mà hình thành trong đầu các em. Mỗi giáo viên thật tâm huyết với nghề, thương yêu học sinh như con thì chắc rằng tất cả những học sinh sẽ trở thành những người có ích cho xã hội, thành những người chủ nhân tương lai của đất nước vì thế cần có sự chung tay của gia đình, thầy cô và toàn xã hội nhưng thầy cô đóng góp một phần không nhỏ làm nên nhân cách của trẻ.
Điều kiện áp dụng:
Những kinh nghiệm này tôi đã thực hiện và thấy tương đối thành công. Tôi nghĩ rằng nội dung của sáng kiến này có thể áp dụng với mọi giáo viên thuộc mọi Trường Tiểu học. 
Song yêu cầu đối với giáo viên là sụ nhiệt tình, tâm huyết với nghề, thương yêu học sinh như con của mình.
Tôi tin tưởng rằng với tấm lòng của người sư phạm, các thầy cô sẽ còn thành công nhiều hơn nữa trong công tác chủ nhiệm của mình.
Đề xuất ý kiến:
Muốn làm tốt công tác chủ nhiệm lớp tôi có một số ý kiến sau:
Cha mẹ học sinh phải quan tâm, chăm sóc con cái chu đáo hơn nữa. Giáo dục, kèm cặp các em học tập một cách tích cực đứng phương pháp.
Bài sáng kiến kinh nghiệm chủ nhiệm lớp của tôi chắc còn nhiều hạn chế, thiếu sót, rất mong được sự góp ý của quý lãnh đạo.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
 An Phúc, ngày 30 tháng 11 năm 2016.
	Người thực hiện
 Phạm Văn Nông
HỘI ĐỒNG KHOA HỌC 	Mẫu 02
Đơn vị: .........................................
PHẦN NHẬN XÉT ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Kết quả chấm điểm:./100 điểm
Về nội dung: 
Tính mới: /30 điểm.
Tính hiệu quả: ./35điểm. 
Tính ứng dụng thực tiễn: /20 điểm.
Tính khoa học:/10 điểm.
Về hình thức:../05 điểm.
Xếp loại:..
 , ngày .. tháng ..năm..
 CHỦ TỊCH HĐKH

Tài liệu đính kèm:

  • docSANG_KIEN_KINH_NGHIEM_DE_TAI_CONG_TAC_CHU_NHIEM_LOP_220162017DOCtailieu.doc