Phương pháp rốn chữ viết cho học sinh lớp 2

I/ LÝ do chän ®Ò tµi

Chúng ta đang ở trong một thời đại mới, thời đại công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Thời đại thông tin bùng nổ, mọi người thường ngồi với chiếc máy vi tính của mình để soạn thảo một văn bản thay vì cầm bút viết trên giấy. Việc rèn chữ viết của mọi người bị chìm quên vào quên lãng. Ở trong trường Tiểu học cũng vậy, trong những năm học gần đây, học sinh viết chữ xấu là tình trạng đáng báo động. Hiện nay, HS lựa chọn đủ các loại bút để viết. Đặc biệt, HS rất yêu thích với chiếc bút bi của mình hơn là những loại bút chấm mực như ngày xưa. Mặt khác, chữ viết của khá nhiều GV chưa đúng quy định cũng ảnh hưởng rất nhiều đến việc rèn chữ viết của HS. Mỗi thầy, cô giáo được xem như là một tấm gương phản chiếu để HS soi rọi vào đó. Lứa tuổi của HS Tiểu học hay “bắt chước” nên GV viết như thế nào thì HS viết như thế đó. Đặc biệt là lứa tuổi HS Tiểu học.

Trẻ em đến trường là để được học đọc, học viết. Nếu phân môn Tập đọc – Học vần giúp trẻ biết đọc thông thì phân môn Tập viết sẽ giúp các em viết thạo. Đọc thông, viết thạo sẽ giúp trẻ tiếp thu bài nhanh hơn, học tốt hơn.

Ông cha ta thường nói: “Nét chữ, nết người”. Chữ viết phần nào đó biểu hiện tính cách của con người. Vì vậy có thể thấy việc tập viết không chỉ góp phần vào việc rèn luyện kĩ năng viết chữ của học sinh mà còn góp phần vào việc giáo dục cái đẹp và hình thành những đức tính tốt cho các em. Đúng như Cố vấn Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã phát biểu: “Chữ viết cũng là một sự biểu hiện của nết người. Dạy cho học sinh viết đúng, viết cẩn thận, viết đẹp là góp phần rèn luyện cho các em tính cẩn thận, tính kỉ luật, lòng tự trọng đối với mình cũng như đối với thầy và bạn đọc bài, đọc vở của mình”.

Thật vậy, nhìn trang vở của HS với những dòng chữ đều tăm tắp, sạch sẽ thì cả cha mẹ và thầy cô đều dấy lên một niềm vui. Chúng ta như đặt niềm tin vào tương lai con trẻ.

Việc rèn chữ viết cho HS còn là môi trường quan trọng bồi dưỡng cho trẻ những phẩm chất tốt như: tính cẩn thận, tinh thần kỉ luật và óc thẩm mĩ. Nhưng muốn viết thạo, trẻ phải gắng công khổ luyện dưới sự dìu dắt tận tình của các thầy giáo, cô giáo.

Xuất phát từ những vấn đề trên và qua thực tế giảng dạy, tôi tiến hành thực hiện đề tài: “Ph­¬ng ph¸p rèn chữ viết cho học sinh líp 2” nhằm giúp các em viết đúng, ngay ngắn và đẹp, góp phần thực hiện tốt phong trào “Vở sạch, chữ đẹp” trong học sinh Tiểu học.

 

doc 15 trang Người đăng minhtuan77 Lượt xem 667Lượt tải 1 Download
Bạn đang xem tài liệu "Phương pháp rốn chữ viết cho học sinh lớp 2", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
:
Phương pháp điều tra.
Phương pháp phân tích, tổng hợp.
Phương pháp quan sát
Ph­¬ng ph¸p ph©n lo¹i.
Ph­¬ng ph¸p thö nghiÖm.
 PhÇn II – NéI Dung
Ch­¬ng i: c¬ së lÝ luËn cña ®Ò tµi
i/ Vµi nÐt chung vÒ rÌn ch÷ viÕt trong ph©n m«n tËp viÕt.
 Tập viết là một trong những phân môn có tầm quan trọng đặc biệt ở tiểu học, nhất là đối với các lớp đầu cấp. Phân môn tập viết trang bị cho học sinh bộ chữ La Tinh và những yêu cầu về kỹ thuật để sử dụng bộ chữ cái này trong học tập và giao tiếp. Với ý nghĩa này, tập viết không những có quan hệ mật thiết tới chất lượng học tập của các môn học khác mà còn góp phần rèn luyện một trong những kỹ năng hàng đầu của việc học Tiếng Việt trong nhà trường – kỹ năng chữ viết. Nếu viết đúng, viết đẹp, tốc độ nhanh thì học sinh có điều kiện ghi chép bài học tốt, nhờ vậy kết quả học tập sẽ cao hơn. Viết xấu, chậm sẽ ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng học tập.
	Mặt khác tập viết là phân môn có tính chất thực hành. Tính chất thực hành có mục đích của việc dạy học tập viết cũng góp phần khẳng định vị trí quan trọng của phân môn này ở trường tiểu học.
	Ngoài ra tập viết còn góp phần quan trọng vào việc rèn luyện cho học sinh những phẩm chất đạo đức tốt như tính cẩn thận, tính kỷ luật và khiếu thẩm mỹ.
	Đặc biệt theo chương trình sách giáo khoa mới ở tiểu học và theo quyết định số 31/2002/QĐ-BGD&ĐT của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và đào tạo về mẫu chữ viết trong trường tiểu học thì tính chất thực hành của phân môn tập viết càng thể hiện rõ. Qua việc thực hành của học sinh, người giáo viên lại một lần nữa rèn cho học sinh tính cẩn thận và khiếu thẩm mỹ của các em.
	Trong một năm học, học sinh được học 35 tiết Tập viết, như vậy mỗi tuần có 1 tiết tập viết. Ở lớp 2 học sinh học viết các chữ cái viết hoa, tiếp tục luyện cách viết các chữ viết thường và tập nối nét chữ từ chữ hoa sang chữ thường. Trong mỗi tiết tập viết, học sinh được hướng dẫn và tập viết từng chữ cái viết hoa, sau đó tập viết cụm từ hoặc câu ứng dụng (có nội dung phù hợp với chủ điểm và tương đối dễ hiểu) có chữ hoa ấy. Số lượng, nội dung và hình thức như vậy là phù hợp với học sinh lớp 2. Tuy nhiên, với học sinh lớp 2 học môn tập viết để viết đẹp là rất khó vì ở lớp 1 các em mới làm quen với chữ hoa qua hình thức tập tô trong giai đoạn luyện tập tổng hợp ở học kỳ 2. Chính vì vậy khi viết chính tả, chữ hoa của các em mới dừng ở mức độ gần giống với hình dáng theo mẫu chữ qui định, một số em còn thao tác ngược hoàn toàn với qui trình viết hoặc nhấc bút tuỳ tiện không biết đâu là điểm nhấn của con chữ để tạo độ mềm mại, đẹp. Còn một lý do nữa là trong giờ dạy tập viết, còn nhiều giáo viên chưa chú ý và coi trọng tính luyện tập, thực hành của học sinh, mà đi sâu quá vào việc giải thích qui trình viết chữ, nên học sinh không được luyện viết nhiều và luyện viết còn mang tính hình thức. Vì vậy, để học sinh lớp 2 viết đúng, tiến tới viết đẹp là mối quan tâm và trăn trở rất lớn của tôi cũng như các đồng nghiệp.
II/ ®Æc ®iÓm t©m lÝ 
Tâm lý tình cảm có ảnh hưởng rất lớn tới quá trình nhận thức. Nếu trẻ được viết trong tư thế thoải mái, tâm trạng phấn khởi thì dễ có kết quả tốt. Ngược lại, nếu trẻ buồn phiền thì chữ viết cũng bị ảnh hưởng.
a) Lý thuyết hoạt động:
 Để viết được chữ thì học sinh phải hoạt động (phải tiêu hao năng lượng của thần kinh và bắp thịt). Hoạt động viết của học sinh được thực hiện qua thao tác sau:
- Làm quen với đối tượng: Khi giáo viên hướng dẫn thì trẻ sẽ tri giác bằng mắt, tai và tay sẽ làm theo.
- Nói điều mình tri giác được, vừa nói vừa đưa tay theo các đường nét của chữ cái để nhấn mạnh cách viết đồng thời nhận ra tên gọi, hình dáng chữ đó.
- Nói thầm kiến thức mới thu nhập được để tái hiện hình ảnh đó trong óc trước khi viết.
- Làm thử: Hình ảnh đã có trong óc cần được thể hiện trên bảng, trên giấy bằng các dụng cụ như bút bảng, phấn, bút mực.
- Kiểm tra lại kết quả so với mẫu để rút kinh nghiệm cho lần sau.
b) Đặc điểm đôi tay trẻ khi viết:
- Tay trực tiếp điều khiển quá trình viết của trẻ. Các cơ và xương bàn tay của trẻ đang độ phát triển nhiều chỗ còn sụn nên cử động các ngón tay vụng về, chóng mệt mỏi.
- Khi cầm bút các em có tâm lý sợ rơi. Điều này gây nên một phản ứng tự nhiên là các em cầm bút chặt, các cơ tay cứng nên khó di chuyển.
- Muốn có thói quen viết chữ nhẹ nhàng, thoải mái, trước hết học sinh phải biết kỹ thuật cầm bút bằng ba ngón tay (ngón cái, ngón trỏ, ngón giữa), bàn tay phải có điểm tựa là mép cùi của bàn tay. Cầm bút phải tự nhiên, đừng quá chặt sẽ khó vận động, nếu lỏng quá sẽ không điều khiển được bút.
- Nếu các em cầm bút sai kỹ thuật bằng 4 đến 5 ngón tay, khi viết vận động cổ tay, cánh tay thì các em sẽ mau mệt mỏi, sức chú ý kém, kết quả chữ viết không đúng và nhanh được.
c) Đặc điểm đôi mắt trẻ khi viết:
- Trẻ tiếp thu hình ảnh chữ viết qua mắt nhìn. Vì vậy, nếu chữ viết được trình bày với kích thước quá nhỏ hoặc ánh sáng kém thì các em phải cúi sát xuống để nhìn cho rõ chữ, từ đó dẫn đến cận thị.
- Trong thời gian đầu, có thể các em nhận ra đúng hình chữ nhưng bàn tay chưa ghi lại đầy đủ hình dáng của mẫu chữ. Chỉ sau khi luyện tập, số lần nhắc đi nhắc lại nhiều hay ít tuỳ theo từng học sinh, thì
Ch­¬ng ii: kh¶o s¸t c¸c bµi tËp viÕt trong s¸ch tiÕng viÖt 2
i/NhËn xÐt chung 
Trong một năm học, học sinh được học 35 tiết Tập viết, như vậy mỗi tuần có 1 tiết tập viết. Ở lớp 2 học sinh học viết các chữ cái viết hoa, tiếp tục luyện cách viết các chữ viết thường và tập nối nét chữ từ chữ hoa sang chữ thường. Trong mỗi tiết tập viết, học sinh được hướng dẫn và tập viết từng chữ cái viết hoa, sau đó tập viết cụm từ hoặc câu ứng dụng (có nội dung phù hợp với chủ điểm và tương đối dễ hiểu) có chữ hoa ấy. Số lượng, nội dung và hình thức như vậy là phù hợp với học sinh lớp 2. Tuy nhiên, với học sinh lớp 2 học môn tập viết để viết đẹp là rất khó vì ở lớp 1 các em mới làm quen với chữ hoa qua hình thức tập tô trong giai đoạn luyện tập tổng hợp ở học kỳ 2. Chính vì vậy khi viết chính tả, chữ hoa của các em mới dừng ở mức độ gần giống với hình dáng theo mẫu chữ qui định, một số em còn thao tác ngược hoàn toàn với qui trình viết hoặc nhấc bút tuỳ tiện không biết đâu là điểm nhấn của con chữ để tạo độ mềm mại, đẹp. Còn một lý do nữa là trong giờ dạy tập viết, còn nhiều giáo viên chưa chú ý và coi trọng tính luyện tập, thực hành của học sinh, mà đi sâu quá vào việc giải thích qui trình viết chữ, nên học sinh không được luyện viết nhiều và luyện viết còn mang tính hình thức.
 Ii/ Tæng hîp c¸c bµi tËp viÕt trong s¸ch tiÕng viÖt 2 
stt
Tªn bµi
TuÇn
Chñ ®iÓm
1
Ch÷ hoa A
1
Em lµ häc sinh
2
Ch÷ hoa ¡ _ ¢
2
Em lµ häc sinh
3
Ch÷ hoa b
3
 B¹n bÌ
4
Ch÷ hoa c
4
B¹n bÌ
5
Ch÷ hoa d
5
Tr­êng häc
6
Ch÷ hoa ®
6
Tr­êng häc
7
Ch÷ hoa e – ª
7
ThÇy c«
8
Ch÷ hoa g
8 
ThÇy c«
9
Ch÷ hoa h 
10
«ng bµ
10
Ch÷ hoa i
11
«ng ba
11
Ch÷ hoa k
12
Cha mÑ
12
Ch÷ hoa l
13
Cha mÑ
13
Ch÷ hoa m 
14 
Anh em 
14
Ch÷ hoa n
15
Anh em
15
Ch÷ hoa O
16
B¹n trong nhµ
16
Ch÷ hoa ¤ - ¥
17
B¹n trong nhµ
17
Ch÷ hoa P
19
Bèn mïa
18
Ch÷ hoa Q
20
Bèn mïa
19
Ch÷ hoa R 
21
Chim chãc
20
Ch÷ hoa S
22
Chim chãc
21
 Ch÷ hoa T 
23
Mu«ng thó
22
Ch÷ hoa U -¦
24
Mu«ng thó
23
Ch÷ hoa V
25
S«ng biÓn
24
Ch÷ hoa X 
26
S«ng biÓn
25
Ch÷ hoa Y
28
C©y cèi 
26
Ch÷ hoa A kiÓu 2
29
 C©y cèi
27
Ch÷ hoa M kiÓu 2
30
 B¸c Hå
28
Ch÷ hoa N kiÎu 2
31
B¸c Hå
29
Ch÷ hoa Q kiÓu 2
32
Nh©n d©n
30
Ch÷ hoa V kiÓu 2
33
Nh©n d©n
31
¤n c¸c c÷ hoa A,M,N,Q,V
34
Nh©n d©n
Ch­¬ng III: Mét sè ph­¬ng ph¸p rÌn ch÷ viÕt cho häc sinh líp 2
Trong trường Tiểu học, việc dạy Tập viết được phối hợp nhịp nhàng với dạy Học vần, Chính tả, TLV, việc ghi vào vở bài học các môn học, vở luyện viết chữ đẹp của học sinh 
Dạy tập viết không chỉ truyền thụ cho học sinh những kiến thức cơ bản về chữ viết mà còn rèn kĩ thuật viết chữ. Trong các tiết tập viết, học sinh nắm bắt được các tri thức cơ bản về cấu tạo chữ các tiếng Việt được thể hiện trên bảng cài, bảng lớp, bảng con, trong vở tập viết và vở ghi bài các môn học khác Đồng thời, học sinh được giáo viên hướng dẫn các yêu cầu về kỹ thuật viết từng nét chữ để hình thành nên một chữ cái rồi đến tiếng, từ, cụm từ và cả câu. 
Đầu năm học, danh hiệu đăng kí thi đua của lớp là lớp xuất sắc và lớp giữ vở sạch – viết chữ đẹp. Để đạt được mục tiêu đó, bản thân đã có những biện pháp thực hiện như sau: 
1/ Phân loại học sinh: 
          Việc phân loại học sinh là bước đầu tiên để giáo viên có cơ sở rèn học sinh viết chữ. Tuần đầu tiên, tôi tiến hành kiểm tra vở viết của các em và chấm điểm giữ vở sạch – viết chữ đẹp cho từng em, rồi tiến hành phân loại theo các thang điểm 9-10, 7-8, 5-6, 1-4. Trên cơ sở khảo sát, phân loại học sinh, tôi lập kế hoạch xây dựng chương trình rèn chữ viết cho các em, để giúp đỡ các em viết chữ đúng quy định hơn. 
          Sau đây là bảng thống kê thang điểm giữ vở sạch – viết chữ đẹp lớp 2/4 đầu năm học 2012 - 2013 
          Sĩ số: 38 
Phân loại 
Điểm 9 – 10
Điểm 7 – 8
Điểm 5 – 6
Điểm 1 – 4
Số lượng
5
9
18
6
Tỉ lệ
13.2%
23.7%
47.4%
15.7%
  	Qua kết quả kiểm tra ở trên tôi nhận thấy số lượng học sinh viết chữ xấu còn khá nhiều, cụ thể điểm yếu và trung bình đạt từ 15.7 – 47.4%, nghĩa là có 63.1% học sinh có điểm trung bình trở xuống. Điều này cho thấy cần phải có biện pháp để rèn chữ viết cho các em.
2/ Tiến hành thử nghiệm: 
          Sau khi có kết quả kiểm tra, tôi chọn một học sinh có chữ viết không rõ ràng, viết không ngay hàng thẳng lối để tiến hành thử nghiệm. Cứ mỗi buổi học vào giờ tập viết, tôi dạy cho em nắm được các khái niệm về dòng kẻ (đường kẻ), tương đương với bao nhiêu ô li? Đặt bút ở đường kẻ nào? Dừng bút ở đường kẻ nào? Chữ cái đó có mấy nét? Tên gọi của các nét? Vị trí dấu phụ và dấu thanh đặt ở đâu? Cách nối nét như thế nào?... Từ đó, hình thành cho em những biểu tượng về hình dáng, độ cao, sự cân đối, tính thẩm mỹ của chữ viết. 
          Ví dụ: Em viết chữ O có hình dáng như hạt gạo, tôi cho xem chữ O mẫu rồi hỏi: Chữ O giống hình gì? – Em trả lời: Chữ O giống quả trứng gà, giống số 0 Từ đó, tôi cho em so sánh và hướng dẫn em viết đúng. 
          Trước khi hướng dẫn em viết bài vào vở, tôi hướng dẫn em cách cầm bút, cách để vở và ngồi viết đúng tư thế. Một bài viết đẹp phải đi kèm với tư thế đúng, rèn cho em viết đẹp mà quên đi việc uống nắn cách ngồi viết cho em là một thiếu sót lớn của giáo viên. Việc tập viết không đảm bảo đúng các quy định được xây dựng trên cơ sở khoa học sẽ để lại nhiều di hại suốt đời cho học sinh như: mắt cận thị do ngồi viết ở nơi thiếu ánh sáng hoặc cúi đầu sát vở, cột sống bị vẹo, lưng gù, phổi bị ảnh hưởng do ngồi không đúng tư thế. Vì vậy, khi hướng dẫn cho học sinh tập viết, cần coi trọng việc phối hợp đồng bộ các bộ phận trên cơ thể được coi là một nguyên tắc đặc thù. 
          Tiếp theo, tôi dạy cho em các thao tác viết chữ từ đơn giản đến phức tạp, dạy cho em kỹ năng viết các nét, cách lia bút và cách nối nét. Đồng thời giúp cho em xác định được khoảng cách, vị trí cỡ chữ trên vở kẻ ô li để hình thành kỹ năng viết đúng mẫu, rõ ràng và tiến tới là viết đẹp, viết nhanh. 
 Hằng ngày, tôi giao cho em viết một trang trên vở rèn viết chữ đẹp và giao cho 1 em viết chữ đẹp kiểm tra và báo cáo lại kết quả cho giáo viên chủ nhiệm vào đầu mỗi buổi học. Cứ như thế, tôi tiến hành thử nghiệm trong thời gian 4 tuần. 
          Để xác định lại kết quả rèn chữ viết của học sinh được thử nghiệm, tôi cho em học sinh đó thi viết chữ đẹp với những em viết chữ đẹp khác của lớp. Tôi so sánh kết quả và nhận thấy rằng chữ viết của em không khác gì so với chữ viết của những em viết chữ đẹp khác. Như vậy, đó là một dấu hiệu tốt của một hướng đi đúng trong việc rèn viết chữ đẹp cho một em viết chữ xấu. 
          Thế là tôi bắt tay vào tiến hành rèn chữ viết cho học sinh toàn lớp. Với 8 em viết chữ không rõ nét và 18 em viết chữ không đều, tôi phân các em đều vào 4 nhóm với nhau để thi đua. Như vậy, để việc luyện tập thực hành của học sinh có hiệu quả, sản phẩm là chữ viết của các em đúng và đẹp, theo tôi người giáo viên cần tiến hành như sau:
	1. Giáo viên cần chú ý đến các giai đoạn của quá trình tập viết chữ. Việc hướng dẫn học sinh luyện tập thực hành phải tiến hành từ thấp đến cao, từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp để học sinh dễ tiếp thu. Lúc đầu là việc viết đúng hình dáng, cấu tạo, kích thước các cỡ chữ, sau đó là viết đúng dòng và đúng tốc độ qui định. Việc rèn luyện kỹ năng viết chữ phải được tiến hành đồng bộ ở lớp cũng như ở nhà, ở phân môn tập viết cũng như ở các phân môn của bộ môn Tiếng Việt và ở các môn học khác.
	2. Khi học sinh luyện tập viết chữ, giáo viên cần luôn luôn chú ý uốn nắn để các em cầm bút và ngồi viết đúng tư thế. Bài viết đẹp phải đi kèm với tư thế đúng. Rèn cho trẻ viết đẹp mà quên mất việc uốn nắn cách ngồi viết là một thiếu sót lớn của giáo viên. Trong quá trình luyện tập của học sinh, tôi thường lưu ý các hình thức luyện tập cơ bản sau:
	Hình thức thứ nhất: 	Luyện các thao tác chuẩn bị viết chữ
	Học sinh dùng que chỉ “đồ” trên mẫu ở phần hướng dẫn qui trình viết; viết bằng ngón tay vào khoảng không trước mặt, nếu cần có thể tập viết nét khó, nét đặc biệt chú ý để chữ viết được đúng và đẹp.
	Hình thức thứ hai: 	Luyện viết chữ trên bảng lớp
	Hình thức tập viết chữ trên bảng lớp có tác dụng kiểm tra sự tiếp thu cách viết chữ và bước đầu đánh giá kỹ năng viết chữ của học sinh. Hình thức này thường dùng trong một quá trình viết từ và cụm từ ứng dụng. Qua đó giáo viên phát hiện chỗ sai của học sinh (về hình dáng, cách viết, thứ tự các nét...) để uốn nắn chung cho cả lớp hoặc đánh giá, cho điểm.
	Ví dụ: Khi dạy bài: A Chữ hoa 
	Học sinh được luyện tập viết trên bảng lớp khi kiểm tra bài cũ (giáo viên yêu cầu 2,3 học sinh lên bảng viết chữ “ A “
	Sau khi giáo viên viết mẫu chữ, học sinh lên bảng lớp viết, giáo viên quan sát xem học sinh đã viết theo đúng qui trình chưa (nét móc ngược trái, nét thẳng đứng, thẳng xiên và nét móc ngược phải), học sinh đã chú ý vào điểm nhấn của chữ để con chữ này mềm mại và đẹp chưa (nét thẳng đứng hơi lượn sang trái ở phần cuối của nét 2).
	Sau khi giáo viên hướng dẫn viết chữ cỡ nhỏ và từ cũng như cụm từ ứng dụng, giáo viên gợi ý học sinh lên bảng viết. Giáo viên quan sát học sinh đã biết từ chữ hoa cỡ nhỡ chuyển sang chữ cỡ nhỏ đã đúng chưa (đây là chữ mà các em sử dụng thường xuyên khi viết), hay học sinh đã biết nối giữa nét móc của chữ với nét hất của chữ chưa.
	Hình thức thứ ba: 	
Luyện viết chữ trên bảng con của học sinh
Học sinh luyện tập viết chữ bằng phấn trên bảng con trước khi học sinh tập viết vào vở. Học sinh có thể tập viết chữ cái hoa, tập viết chữ ghi tiếng ứng dụng (có chữ cái hoa). Luyện nối chữ ở trường hợp khó nếu cần. Khi sử dụng bảng con, giáo viên cần hướng dẫn các em cách lau bảng từ trên xuống dưới, cách sử dụng và bảo quản phấn (phấn phải để vào hộp riêng cho khô), cách lau tay sau khi viết để giữ vệ sinh (phải có giẻ ẩm để lau bảng, một giẻ khác chỉ dùng để lau tay). Viết vào bảng xong, học sinh cần giơ lên để giáo viên kiểm tra, nhận xét, sửa lỗi vào ngay bảng của học sinh nếu có.
	Hình thức thứ tư: 	 Luyện tập viết trong vở tập viết 2
	Học sinh phải viết các chữ hoa, chữ ghi tiếng ứng dụng theo cỡ vừa và cỡ nhỏ, viết cụm từ ứng dụng theo cỡ nhỏ.
	Muốn cho học sinh sử dụng vở tập viết có hiệu quả, giáo viên cần hướng dẫn tỉ mỉ nội dung và yêu cầu kỹ năng của từng bài. Quá trình hướng dẫn học sinh luyện tập viết chữ, giáo viên cần hết sức lưu ý rèn các thói quen cho học sinh: ngồi viết đúng tư thế, để vở đúng qui cách và biết xê dịch vở khi viết, cầm bút (viết) đúng qui định.
	Ví dụ: Khi học sinh luyện viết vở bài: A Chữ hoa
	Ở dòng đầu tiên viết chữ hoa “A” cỡ nhỡ, giáo viên yêu cầu học sinh quan sát kỹ chữ viết mẫu trong vở để xác định điểm đặt bút, độ lượn của phần đầu và độ uốn của phần lưng chữ “A”. Sau đó giáo viên yêu cầu học sinh viết từng chữ một, chữ sau rút kinh nghiệm của chữ trước để viết đẹp hơn. Cũng hướng dẫn tương tự với dòng chữ “A” cỡ nhỏ (học sinh viết từng dòng một).
	Trước khi học sinh luyện viết chữ ghi từ ứng dụng “Anh em thuận hòa”, giáo viên yêu cầu học sinh quan sát kỹ cách nối từng chữ, học sinh cũng viết từng chữ một để khắc sâu trí nhớ và rút kinh nghiệm cho chữ sau.
Ở dòng đầu của chữ ghi cụm từ ứng dụng “Anh em thuận hòa” giáo viên cần cho học sinh nhắc lại khoảng cách giữa các chữ trước khi luyện viết.
	Việc đảm bảo tốt các công việc trên sẽ giúp các em viết tốt hơn ở những dòng sau.
Hình thức thứ năm: 	Luyện tập viết chữ hoa khi học các môn học khác
Ngoài các giờ tập viết, giáo viên còn phải luôn nhắc nhở học sinh tập viết ở các môn (phân môn) khác. Có như thế việc luyện tập viết chữ mới được củng cố đồng bộ thường xuyên, nhằm nâng cao chất lượng chữ viết và hình thành ở học sinh những phẩm chất tốt như tính kiên trì, cẩn thận, khiếu thẩm mỹ. Việc làm này đòi hỏi ở giáo viên ngoài những hiểu biết về chuyên môn còn cần sự kiên trì, tính cẩn thận và lòng yêu nghề mến trẻ.
3/ Các phương pháp thử nghiệm: 
3.1 Tổ chức nhóm: 
          Việc phân chia nhóm là để tạo mối quan hệ tình cảm bạn bè với nhau, cùng giúp đỡ nhau trong học tập và nhằm để cho các em thi đua lẫn nhau. Ngoài việc hướng dẫn của giáo viên, tôi giao trách nhiệm cho những em viết chữ đẹp hướng dẫn và giúp đỡ các bạn hằng ngày từ việc tô các nét cơ bản đến tô chữ, tập viết các chữ cái, đến từ ứng dụng và viết câu ứng dụng vào những giờ tập viết, giờ chuyển tiết, những buổi sinh hoạt tập thể và có lúc luyện cả vào những buổi học 4 tiết, những buổi học gộp nội dung bài lại với nhau, thực hiện theo việc khoán chương trình của Bộ cho mỗi giáo viên. 
3.2. Thi đua giữa các nhóm: 
          Trong những giờ tập viết, tôi chia lớp thành 4 nhóm nhỏ và đặt tên nhóm theo tên các con vật, đồ vật như: nhóm Thỏ Ngọc, nhóm Sao Sáng Tôi cho các nhóm thi đua với nhau, nhóm nào có nhiều bài viết đẹp thì nhóm đó được nhận cờ thi đua của lớp. 
          Tôi cho các nhóm nhận xét bài viết của các bạn trong nhóm hoặc ở các nhóm khác. Việc làm này giúp các em nhìn thấy được mặt hạn chế của mình qua nhận xét của các bạn. Từ đó, giúp các em tham gia sửa chữa những chỗ viết sai. Như vậy thông qua việc học nhóm, không những giải quyết được rèn chữ viết cho các em mà còn tạo điểu kiện cho các em thi đua học tập với nhau. Các em biết tự đánh giá mình và tự đánh giá lẫn nhau. 
3.3 Trò chơi học tập: 
          Việc xây dựng trò chơi học tập trong giờ tập viết là một hình thức tổ chức lớp học, hoạt động dưới dạng: “Học mà chơi – chơi mà học”. Trong trò chơi học tập, giáo viên giúp các em củng cố lại những kiến thức rèn kỹ năng thực hành, tạo được mối quan hệ đoàn kết trong học tập. 
          Ví dụ: Giáo viên có thể dùng các nét rời, rồi cho học sinh thi ghép các nét chữ với nhau để tạo thành những chữ cái đã học hoặc cho học sinh thi viết lại những chữ cái trên bảng lớp. 
          Để ghép được chữ A (kiểu 1), giáo viên chuẩn bị các tấm bìa, mỗi bộ 3 tấm bìa theo 3 nét của chữ A: nét móc ngược trái, nét móc ngược phải và nét lượn ngang Sau đó, giáo viên gọi 4 em có chữ viết kém lên thi ghép chữ với nhau. 
          Cách chơi: 4 em lên bảng đứng thành hàng ngang. Giáo viên phát cho mỗi em một bộ các nét chữ A. Giáo viên hô “bắt đầu” thì mỗi em tự đính các nét chữ A rời rồi ghép lại với nhau để thành chữ A hoàn chỉnh. Em nào ghép đúng và nhanh thì được cả lớp vỗ tay tuyên dương. 
          Như vậy, khi vận dụng trò chơi, giáo viên cần lựa chọn những hình thức sao cho phù hợp với học sinh của lớp mình để đem lại hiệu quả cao trong quá trình dạy học. 
3.4. Nhận xét và khen thưởng: 
3.4.1. Nhận xét: 
          Trong mỗi giờ dạy tập viết, những em nào có chữ viết dần tiến bộ, chữ viết rõ nét hơn, kể cả việc ghi chữ trong vở, trên bảng lớp hoặc trên bảng con, tôi nhận xét: “So với trước, chữ viết của các em đúng mẫu và đều nét hơn rồi đó. Các em cố gắng hơn nữa nhé!”. Khi ấy, tôi thấy trong ánh mắt các em đang sáng lên một niềm vui. Điều đó, tạo được niềm tin và sự hứng thú trong học tập của các em. 
3.4.2. Khen thưởng: 
          Sau mỗi giờ tập viết, tôi tổng kết nhóm nào có số lượng bạn viết chữ đẹp nhiều nhất thì nhóm đó được cả lớp vỗ tay tán thưởng và cuối tuần được xếp loại thi đua cho tổ. 
3.5. Sử dụng đồ dùng dạy học: 
          Việc sử dụng đồ dùng dạy học là một yếu tố rất quan trọng trong quá trình dạy học, nó không chỉ thực hiện chức năng minh hoạ mà còn là nguồn tri thức để học sinh khám phá và phát huy tính tích cực học tập cho học sinh, đạt được hiệu quả cao trong giờ học. Mỗi bài tập viết đều có mẫu chữ in sẵn (Mẫu chữ Bộ Giáo dục và Đào tạo đã Ban hành), nhằm giúp học sinh quan sát, nhận biết, phân tích hình dáng, cấu tạo của chữ như: Chữ có độ cao mấy li? Tương đương với bao nhiêu dòng kẻ? Chữ được viết mấy nét? Là những nét gì? Các nét đó như thế nào? Có hình dạng ra sao? Các nét nối với nhau ra sao? Khi viết đặt bút ở dòng kẻ nào? Dừng bút ở dòng kẻ nào?... Từ đó, giúp học sinh phát hiện được sự giống nhau và khác nhau giữa chữ đang viết với chữ đã viết. 
          Ví dụ: Chữ Q: nét 1 giống chữ O nhưng có nét lượn ngang giống như một dấu ngã lớn. 
          Giáo viên củng cố lại những chữ khó viết mà học sinh thường viết sai. 
          Ví dụ: Những chữ có vòng xoắn, nét khuyết, nét cong. 
          Chữ C và chữ E có nét cong dưới giống nhau, nhưng nét cong dưới của chữ C có độ cao 1.25 đơn vị; còn nét cong dưới của chữ E có độ cao 1 đơn vị. 
          Ngoài mẫu chữ in sẵn, giáo viên còn chuẩn bị mẫu chữ cỡ nhỏ trên giấy khổ to, giáo viên viết sẵn: từ ứng dụng, câu ứng dụng giúp cho học sinh viết đúng. Giáo viên làm sẵn các bộ nét chữ rời của các chữ cái để cho học sinh chơi trò chơi nhằm giúp cho học sinh củng cố lại cấu tạo của chữ cái. 
          Như vậy, việc sử dụng đồ dùng dạy học giúp cho học sinh hình thành kỹ năng viết đúng mà còn có khả năng phân tích hình dáng, kích thước và các nét cơ bản về cấu tạo chữ cái cần viết trong từng đơn vị bài học. 
3.6. Vai trò hoạt động của giáo viên: 
          Trong giờ dạy tập viết, vai trò của giáo viên rất quan trọng. Mỗi th

Tài liệu đính kèm:

  • docphuong phap ren chu o hoc sinh tieu hoc.doc