I/ PHẦN I: LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
1. Đặt vấn đề:
Trong công cuộc đổi mới kinh tế, xã hội đang diễn ra trên toàn cầu. Đòi hỏi ngành giáo dục phải đào tạo con người đủ tài, đủ đức. Góp phần xây dựng đất nước ngày càng phồn vinh sánh vai với các cường quốc tiên tiến trên thế giới. Để thực hiện tốt vấn đề này nhà trường phải đổi mới phương pháp dạy học một cách hợp lý và phù hợp từng đối tượng học sinh. Đây là việc làm tất yếu và thường xuyên trong trường Tiểu học. Do vậy, các tiết học trên lớp của giáo viên và học sinh hiện nay phải đổi mới phương pháp dạy học. Đó là một yêu cầu cần thiết và cấp bách của nền giáo dục nước nhà. Vì thế, giáo viên phải chuyển sang phương pháp dạy học tích cực lấy học sinh làm trung tâm. Các hoạt động dạy học luôn được đổi mới để phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của nhà trường cũng như trình độ nhận thức của từng học sinh. Vì hiện nay cả giáo viên và học sinh đều là những nhân tố tích cực trong quá trình dạy học góp phần xây dựng đất nước trong thời gian tới.
Như chúng ta đã biết, đặc điểm của phương pháp dạy học truyền thống là có sự mất cân đối rõ rệt giữa hoạt động dạy học của giáo viên và hoạt động học của học sinh. Ngày nay, với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ, sự phát triển năng động của các nền kinh tế, quá trình hội nhập và toàn cầu hoá đang làm cho việc rút ngắn khoảng cách về trình độ phát triển giữa các nước trở nên thực tiễn hơn và nhanh chóng hơn. Khoa học công nghệ trở thành động lực cơ bản của sự phát triển kinh tế xã hội. Giáo dục là nền tảng của sự phát triển khoa học – công nghệ, phát triển nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu của xã hội hiện đại và đóng vai trò chủ yếu trong việc nâng cao ý thức dân tộc, tinh thần trách nhiệm và năng lực của các thế hệ hiện nay và tương lai mai sau.
Đổi mới phương pháp dạy học ở Tiểu học là tạo nên những thay đổi sâu sắc trong giáo dục, từ quan niệm về chất lượng giáo dục, xây dựng nhân cách học sinh đến cách thức tổ chức quá trình dạy học. Nhà trường từ chỗ khép kính chuyển sang mở cửa rộng rãi, đối thoại với xã hội và gắn bó chặt chẽ với nghiên cứu khoa học công nghệ và ứng dụng. Nhà giáo thay vì truyền đạt tri thức chuyển sang cung cấp cho người học phương pháp thu nhận thông tin một cách hệ thống, có tư duy phân tích và tổng hợp.
iêng cho một tiết học hoặc một phần của tiết học. Coi như là một phương tiện tổ chức hoạt động dạy học. Có nhiều loại phiếu học tập như: Phiếu kiểm tra, phiếu học, phiếu thực hành a3. Hình thức tổ chức trò chơi toán học. Trò chơi toán học là trò chơi chứa một yếu tố toán học nào đó. Trò chơi có thể phân loại theo số người tham gia. Trò chơi tập thể, trò chơi cá nhân. Trò chơi có thể là trò chơi vận động, có thể là trò chơi trí tuệ, cũng có thể kết hợp vận động với trí tuệ. Trò chơi toán học có thể tổ chức như một hoạt động dạy học toán. Cơ sở tâm lý và sinh lý khẳng định hoạt động dạy học toán dưới dạng trò chơi là rất phù hợp với lứa tuổi học sinh Tiểu học. Thực tế cho thấy hình thức tổ chức trò chơi toán học được áp dụng trong giờ học toán, học sinh rất hứng thú và tích cực tham gia. Ngoài trò chơi vận động, trò chơi trí tuệ, trò chơi toán học có thể là: - Trò chơi nhằm dẫn dắt hình thành kiến thức mới. - Trò chơi nhằm cũng cố kiến thức, luyện tập kĩ năng. - Trò chơi nhằm ôn tập, rèn luyện tư duy trong giờ ngoại khoá. a4. Hình thức tổ chức dạy học kết hợp với các phương tiện thiết bị dạy học. Đồ dùng dạy học toán là bất kì dụng cụ nào( đồ vật, mô hình, tranh ảnh, hình vẽ, . . . ) được sử dụng trong dạy học toán. Đồ dùng dạy học toán rất đa dạng và phong phú, từ những đồ vật đơn giản nhất như là que tính đến những dụng cụ đắt tiền như máy vi tính, đèn chiếu, . . . đều có thể coi là đồ dùng dạy học toán. Tư duy học sinh thường bắt đầu từ những biểu tượng cụ thể, nên kiến thức toán học ở Tiểu học chủ yếu hình thành bằng con đường cụ thể. Chính điều này dẫn đến xu hướng dạy học toán theo cách tổ chức cho học sinh: hoạt động bằng tay với đồ vật – hoạt động quan sát với các mô hình, hình vẽ – hoạt động chơi với lời nói – hoạt động trí óc. Trong rất nhiều trường hợp có thể tổ chức hoạt động mà không có đồ dùng dạy học toán. Tuy nhiên đồ dùng dạy học toán phải được sử dụng đúng lúc, đúng chỗ, đúng cách thì tiết học mới có hiệu quả. Đúng lúc nghĩa là khi cần sử dụng thì sử dụng, khi không cần thì không sử dụng đồ dùng dạy học. Môn Toán có một nhiệm vụ trọng đại là rèn luyện tư duy trừu tượng cho học sinh, cho nên lạm dụng việc sử dụng đồ dùng dạy học cũng làm hạn chế kết quả học tập của học sinh. Để biết sử dụng đồ dùng dạy học đúng lúc, đúng chỗ giáo viên phải nắm chắc kiến thức. Thông qua việc sử dụng đồ dùng dạy học có thể đánh giá được giáo viên có nắm vững kiến thức của tiết dạy hay không? a5. Hình thức tổ chức đố vui học toán. Đố vui toán học có nhiều tác dụng đối với dạy học toán như: - Tạo không khí thư giãn thoải mái trong học tập. - Tạo ra những tình huống kích thích học sinh suy nghĩ, góp phần rèn luyện năng lực tư duy sáng tạo và gây hứng thú học toán cho học sinh. Vì thế đố vui có thể xem là một hình thức giải lao tích cực. a6. Hình thức tổ chức truyện kể toán học. Truyện kể toán học là câu chuyện mà nội dung có yếu tố nào đó liên quan đến toán học. Cụ thể hơn, truyện kể có thể là: - Những câu chuyện gắn với các bài toán hay, các phát minh gần với toán học. - Những câu chuyện về cách xử trí thông minh, ứng đối nhanh và độc đáo. - Những câu chuyện trong cuộc sống hàng ngày, có chi tiết nào đó liên quan đến toán học, dù là rất đơn giản. Kể chuyện toán học cũng có thể xem là một hình thức hoạt động dạy học. Kể chuyện một mặt làm thay đổi không khí lớp học như một hình thức nghỉ ngơi tích cực, thư giãn đầu óc, chuẩn bị để tiếp tục học tập,mặt khác có tác dụng hỗ trợ dạy học toán thông qua việc đưa học sinh vào những tình huống có vấn đề cần suy nghĩ để đề xuất cách giải quyết, ngoài ra còn góp phần giáo dục học sinh ý thức sáng tạo trong lao động, tinh thần yêu nước, tính nhân đạo . . . Một câu chuyện kể trong vài phút, nhưng có thể để lại ấn tượng sâu sắc, đậm nét suốt đời học sinh. b. Một số thông tin về đổi mới phương pháp dạy học ở địa phương trong nước, trong khu vực và trên thế giới. Đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực hoá hoạt động học tập của học sinh, không có nghĩa là gạt bỏ, loại trừ, thay thế hoàn toàn các phương pháp dạy học truyền thống hay phải “ hội nhập” một số phương pháp xa lạ vào quá trình dạy học. Vấn đề là cần kế thừa phát triển những mặt tích cực của phương pháp dạy học hiện có, đồng thời phải học hỏi, vận dụng một số phương pháp dạy học mới một cách linh hoạt nhằm phát huy tính tích cực chủ động, sáng tạo của học sinh trong học tập, phù hợp với hoàn cảnh điều kiện dạy học cụ thể. Ngày nay, bài giảng hiện đại đang có khuynh hướng sử dụng ngày càng nhiều các phương tiện công nghệ thông tin, làm tăng sức hấp dẫn cho người học và đạt hiệu quả cao. Trước đây để minh hoạ bài giảng, giáo viên chỉ có thể sử dụng lời nói giàu hình tượng và gợi cảm, kèm theo những cử chỉ , điệu bộ, diễn tả nội tâm hoặc có thêm bộ tranh sách giáo khoa hỗ trợ. Hiện nay, có đầy đủ phương tiện để giáo viên lựa chọn sử dụng như: máy chiếu, băng ghi âm, băng ghi hình, đĩa CD, phần mềm vi tính . . . Năm 2011 – 2012 là năm học mà ngành giáo dục huyện Tân Trụ phát động 100% giáo viên phải soạn bài trên máy vi tính, biết tự lên mạng Internets tìm hiểu thêm thông tin, biết sử dụng đầu máy đa năng để thực hiện bài giảng của mình một cách sinh động, hiệu quả, phát huy cao nhất tính tích cực học tập của học sinh. Đổi mới phương pháp dạy đang là vấn đề thu hút sự quan tâm của nhiều người. Khi nói về phương pháp dạy học, mọi người đang nói về những đối tượng lý tưởng, đó là những giáo viên có tâm huyết với sự nghiệp trồng người, những học sinh có khát vọng chiếm lĩnh tri thức, hoàn thiện nhân cách. Không có phương pháp nào có thể phát huy hiệu quả đối với những giáo viên thiếu tâm huyết và đối với những học sinh chưa có ý thức cao trong học tập. Vì vậy, trách nhiệm của các nhà quản lý đất nước nói chung và quản lý giáo dục nói riêng, một công việc hết sức quan trọng, có ý nghĩa tạo nền tảng và động lực cho sự phát triển giáo dục là làm sao để mục tiêu giáo dục thấm nhuần trong mỗi cán bộ, giáo viên, học sinh. Điều này không phải thể hiện ở những khẩu hiệu ồn ào mà được cụ thể hoá bằng những chế độ, chính sách, thành những quy chế và cuối cùng trở thành hành động tự giác của thầy và trò trong quá trình dạy và học. Vấn đề này đang là mục tiêu phấn đấu của đất nước ta. Hiện tại đổi mới phương pháp vẫn gặp nhiều khó khăn về nội dung chương trình: số môn học, tiết học và cấu tạo nội dung của nhiều tiết học vẫn còn bất cập với thời gian cho phép người giáo viên thực hiện và khả năng lĩnh hội của học sinh. Vấn đề bức xúc nhất tác động mạnh vào quá trình đổi mới phương pháp dạy học vẫn là cách kiểm tra đánh giá. Tôi đã đọc trên mạng Internets được biết quan niệm thi cử ở Singapo chỉ là một “ lát cắt” trong quá trình học tập mà thôi. Họ tập trung đánh giá một học sinh dựa vào cả quá trình học tập trên mọi bình diện từ việc giữ gìn sức khoẻ, khả năng giao tiếp đến thành tích học tập các môn học. Tại cuộc hội thảo về đổi mới phương pháp dạy học ở các trường phổ thông do Bộ giáo dục – Đào tạo tổ chức ngày 3 tháng 1 năm 2010. Phó Bộ trưởng – Bộ trưởng Bộ giáo dục – Đào tạo Nguyễn Thiện Nhân khẳng định: “ Một trong những tiêu chí quan trọng nhất là sẽ lấy ý kiến nhận xét của học sinh về cách dạy của giáo viên.” c. Tìm hiểu thực trạng việc dạy và học số tự nhiên ở lớp 3 trong trường Tiểu học hiện nay. Qua tìm hiểu sách giáo khoa Toán 3 mới. Cùng với việc nắm bắt ý kiến của giáo viên trong các cuộc họp tổ chuyên môn. Đặc biệt là giáo viên đang trực tiếp giảng dạy lớp 3 về nội dung dạy học bảng nhân, chia trong bảng ở lớp 3 tương đối phù hợp với từng học sinh. Qua bảng nhân, chia 6, 7, 8, 9 các em sẽ áp dụng nhân, chia ngoài bảng. Từ đó vận dụng giải các dạng bài toán như: gấp một số lên nhiều lần; giảm đi một số lần; tính giá trị của biểu thức; so sánh số lớn gấp mấy lần số bé; . . . tìm một trong các phần bằng nhau của một số. Ngoài ra học sinh còn biết giải toán có liên quan đến rút về đơn vị; biết tính chu vi, diện tích hình chữ nhật, hình vuông. Đa số các bài tập đều phù hợp theo chuẩn kiến thức kĩ năng, ở dạng cơ bản không có bài tập nâng cao dành cho học sinh giỏi để đáp ứng yêu cầu cho việc giải toán Olympic trên mạng Internets. Vì vậy giáo viên phải tìm tòi, suy nghĩ những bài toán nâng cao để luyện thêm cho học sinh giỏi. VD: Một số tự nhiên chia cho 6 được kết quả là 21 , số dư lớn nhất có thể có trong phép chia. Lấy số tự nhiên đó nhân với 6 được kết quả là . . . (786 ) : 6 = 21 ( dư 5) = 21 x 6 + 5 = 131 â131 x 6 = 786 Tuy nhiên cũng cần thấy rằng số lượng và yêu cầu đặt ra cho mỗi bài toán trong sách giáo khoa cũng tạo cơ hội cho giáo viên và học sinh có đủ thời gian tổ chức hoạt động, nhất là hoạt động độc lập của học sinh. Đồng thời tạo cơ hội cho giáo viên phát huy khả năng của mình trong dạy học, phải đầu tư, suy nghĩ để khai thác nội dung bài dạy ở nhiều khía cạnh khác nhau. Đưa ra những hình thức tổ chức dạy học tích cực, tạo ra nhiều tình huống hấp dẫn lôi cuốn học sinh tham gia vào hoạt động học tập một cách chủ động, sáng tạo chứ không phụ thuộc vào sách giáo khoa, sách giáo viên một cách cứng nhắc. Tóm lại: Muốn rèn kĩ năng thực hành nhân chia trong bảng ở lớp 3 thật tốt, giáo viên phải hiểu rõ khả năng nhận thức của từng học sinh mà xây dựng phương pháp dạy học sao cho phù hợp. Sau một thời gian nghiên cứu, tìm hiểu thực trạng, việc dạy và học ở trường Tiểu học Bình Trinh Đông và cụ thể là lớp 3/1 do tôi phụ trách. Tôi thấy cần giải quyết một số vấn đề sau: Việc dạy của giáo viên: * Ưu điểm: - Đa số giáo viên nắm vững nội dung và phương pháp dạy học, nội dung dạy nhân chia trong bảng ở lớp 3 đơn giản, có trọng tâm nên việc truyền thụ kiến thức tương đối thuận lợi. Chính vì vậy mà hiện nay việc dạy phép nhân, phép chia được giáo viên thực hiện tương đối nhẹ nhàng và đạt yêu cầu. - Mặt khác trong những năm gần đây, Bộ giáo dục và đào tạo; Sở giáo dục Long An rất quan tâm đến vấn đề đổi mới phương pháp dạy học. Hằng năm, giáo viên được tham gia các lớp tập huấn để nâng cao tay nghề. Ngoài ra, giáo viên còn tham gia thi giảng đổi mới phương pháp cấp huyện, cấp tỉnh, dự chuyên đề ở các trường bạn do huyện tổ chức. Do vậy, mỗi giáo viên đều nhận thức được tinh thần đổi mới phương pháp dạy học môn Toán. Do quán triệt được tinh thần đổi mới phương pháp dạy học nên giáo viên đã chủ động lập kế hoạch bài dạy cho những tiết học, tuần học. Giáo viên luôn chuẩn bị bài giảng trước khi đến lớp một cách chu đáo. Vì tôi nghĩ rằng có chuẩn bị bài kĩ giáo viên mới thấy cái khó, cái mà học sinh hay sai sót, vướn mắc để kịp thời sửa chữa. Trong từng tiết dạy giáo viên nên lựa chọn phương pháp dạy học nào là phù hợp nhằm phát huy tính tích cực của học sinh. * Những mặt tồn tại: - Bên cạnh những ưu điểm của một số đông giáo viên đã tích cực thay đổi phương pháp dạy học, không tránh khỏi một số ít giáo viên vẫn còn giảng dạy rất khuôn mẫu theo sách hướng dẫn của giáo viên, sách giáo khoa. Giáo viên chỉ chú ý sao cho học sinh giải được bài toán cụ thể trong sách giáo khoa chứ chưa chú ý đến việc phát triển các đề toán thành các bài toán tương tự bằng việc yêu cầu học sinh thay đổi số liệu để giúp học sinh nắm vững dạng toán đồng thời giúp cho các em phát triển năng lực tư duy. Giáo viên ít đi sâu, ít nghiên cứu bài dạy, ngại đổi mới phương pháp và còn sử dụng phương pháp truyền thống nhiều hơn. Vì thế dẫn đến học sinh thụ động, nhàm chán. - Nhiều giáo viên cho học sinh luyện tập với không khí buồn tẻ, do đó có nhiều dạng bài tập lặp lại mà giáo viên không đổi mới phương pháp, đổi mới các hình thức chữa bài mà chủ yếu chữa bài một cách đơn điệu. Học sinh đứng đọc bài làm hoặc lên bảng làm bài, lớp chữa bài. Vì vậy, chưa kích thích được hứng thú học tập của học sinh. VD: Bảng chia 6 trang 24 sách giáo khoa BT1 và BT2 có dạng giống nhau. BT1: Tính nhẩm: 42 : 6 = 24 : 6 = 48 : 6 = 30 : 6 = 54 : 6 = 36 : 6 = 18 : 6 = 30 : 5 = 12 : 6 = 6 : 6 = 60 : 6 = 30 : 3 = BT2: Tính nhẩm: 4 x 6 = 6 x 2 = 6 x 5 = 6 x 1 = 24 : 6 = 12 : 6 = 30 : 6 = 6 : 6 = 24 : 4 = 12 : 2 = 30 : 5 = 6 : 1 = Tương tự: Bảng chia 7, bảng chia 8, bảng chia 9 có bài tập 1 và bài tập 2 đều giống nhau. Nhưng giáo viên cứ theo lối mòn cũ gọi học sinh làm và đọc kết quả, cả lớp nhận xét chữa bài cứ rập khuôn như thế làm cho học sinh dễ nhàm chán, không khí lớp học buồn tẻ, thụ động. - Nội dung phép nhân, phép chia số tự nhiên trong Toán 3 là nội dung mới. Để khắc sâu kiến thức, rèn kĩ năng tính toán cho học sinh, sách giáo khoa đưa ra những bài tập tương tự nhau. Đặc biệt là trong các bài học về nhân chia trong bảng. Chẳng hạn, các bài học ấy thường có 3 dạng bài tập: + Tính nhẩm. + Toán có lời văn. + Đếm thêm. Không ít giáo viên chỉ vận dụng lặp lại phương pháp thực hành luyện tập quen thuộc, không chịu đổi mới phương pháp. Thực tế năm học 2011 – 2012 vừa qua, lớp 3/1 do tôi phụ trách rất hứng thú, say mê, sôi nổi trong học tập là do tôi sử dụng tốt một số phương pháp dạy học đổi mới sau đây: 1. Phương pháp trực quan: Ở lứa tuổi Tiểu học các em rất hay mau quên và cũng rất dễ nhớ nếu như các em thực hành các thao tác trên đồ dùng học tập. Vì thế khi dạy bảng nhân 6, tôi hướng dẫn học sinh hình thành bảng nhân trên các tấm bìa có 6 chấm tròn cụ thể như sau: Tôi lấy một tấm bìa có 6 chấm tròn và yêu cầu học sinh lấy theo.Sau đó tôi hỏi học sinh: - Các em vừa lấy bao nhiêu chấm tròn? ( 6 chấm tròn ) - Và lấy mấy lần? ( 1 lần ) - 6 chấm tròn lấy 1 lần ta có phép nhân nào? ( 6 x 1 = 6 ) Sau đó giáo viên yêu cầu học sinh lấy thêm 1 tấm bìa nữa ( học sinh lấy theo giáo viên ). - 6 chấm tròn được lấy mấy lần? ( 2 lần ) - Chúng ta có phép nhân nào? ( 6 x 2 = 12 ) - Tương tự: Giáo viên yêu cầu học sinh lấy tiếp để hình thành bảng nhân 6. Khi lập bảng nhân 6 xong, tôi yêu cầu học sinh tìm xem tích phép nhân sau bằng tích phép nhân trước cộng thêm mấy? ( cộng thêm 6 ) VD: 6 x 5 = 6 x 4 + 6 = 24 + 6 = 30 2. Phương pháp trò chơi toán học: Nhằm lôi cuốn sự chú ý trong học tập, giảm sự căn thẳng trong khi học. tôi thường tổ chức trò chơi toán học để học sinh nghĩ rằng mình đang chơi nhưng thực ra các em vẫn đang học. VD1: Khi dạy bài: “ bảng nhân 6” bài tập 1 trang 19 sách giáo khoa. Tôi tiến hành cho học sinh tính nhẩm bằng bút chì sách giáo khoa sau đó tôi cho học sinh chơi trò chơi đoán số dưới hoa. Bằng cách mỗi phép tính tôi ghi tích sẵn và hiệu ứng từng bông hoa che tích lại( giáo án dạy bằng Powerpoint). Nếu tiết dạy bình thường thì tôi cắt từng bông hoa bằng bìa cứng để che kết quả lại và gọi 1 học sinh làm chủ trò “ đố bạn 6 x 4 = mấy?”. Bạn vừa trả lời đúng lại đố tiếp . . . “ 6 x 0 = mấy?” 1 Tính nhẩm: 6 x 4 = 6 x 1 = 6 x 9 = 6 x 10 = 6 x 6 = 6 x 3 = 6 x 2 = 0 x 6 = 6 x 8 = 6 x 5 = 6 x 7 = 6 x 0 = VD2: Khi dạy bài “ luyện tập” trang 25 sách giáo khoa toán lớp 3. Phần kiểm tra bài cũ giáo viên thường cho 1 bài toán nào đó gọi học sinh lên bảng làm, cả lớp làm bảng con rồi cho học sinh nhận xét. Nhưng theo cách này cứ điệp khúc lặp đi, lặp lại như thế dễ làm cho học sinh nhàm chán, không hứng thú tiếp thu kiến thức mới. Vì thế, tôi tiến hành kiểm tra bài cũ bằng trò chơi “ xì điện”. Cách chơi như sau: Giáo viên hoặc chủ trò ra đề toán 6 x 7 = mấy ? Học sinh trả lời đúng thì ra đề toán tiếp. Cứ thế hết bảng nhân 6. Nhưng không trùng nhau. Làm như vậy sẽ tránh tình trạng học vẹt. Nếu em nào trả lời không được thì bị “xì điện”. Qua 2 năm kinh nghiệm dạy lớp 3 cho thấy có nhiều học sinh tính nhẩm các bài tập rất nhanh. VD3: BT1: trang 31 bài “ Bảng nhân 7”. 7 x 3 = . . . 7 x 8 = . . . 7 x 2 = . . . 7 x 1 = . . . Chỉ học sinh yếu, trung bình phải đọc nhẩm lại bảng nhân 7 mới làm được. Theo tôi, muốn tính được 7 x 8 = ? mà phải đọc lại từ 7 x 1 = 7; 7 x 2 = 14; . . . rồi mới làm được 7 x 8 = 56 như thế sẽ mất thời gian. Vì thế, tôi luyện cho học sinh chơi trò chơi “ xì điện”. nhằm tạo cho học sinh sự nhanh nhẹn, tự tin khi giải toán. Ngoài ra, tôi còn áp dụng trò chơi “ xì điện” cho đôi bạn 15 phút đầu giờ truy bài lẫn nhau. Với phương pháp này cho thấy học sinh tính rất nhanh nhẹn ở những phép nhân, chia ngoài bảng. Để trong từng tiết học toán thật sự hấp dẫn. lớp học thêm sinh động, sôi nổi, lôi cuốn học sinh tham gia tích cực vào các hoạt động học tập. Tôi còn sử dụng thêm một số trò chơi học toán sau: - Trò chơi: Ai nhanh hơn. - Trò chơi: Hái hoa dâng chủ. - Trò chơi: Câu cá nhanh giải toán đúng. - Trò chơi: Khăn trải bàn; . . . VD4: trang 31 sách giáo khoa bài “ Bảng nhân 7” Đếm thêm 7 rồi viết số thích hợp vào ô trống. 7 14 21 42 63 Cách chơi: Tôi chọn 2 đội lên thi đua viết tiếp kết quả. Mỗi đội 5 học sinh , em thứ nhất viết kết quả quả vào ô thứ nhất về trao phấn ( bút lông) cho em thứ hai viết vào ô kế tiếp cứ thế đến ô cuối cùng. Đội nào xong trước thì lấy bông hoa giáo viên đính trên bảng đem về. Sau đó giáo viên cùng học sinh nhận xét 2 đội. - Bước 1: Nhận xét đội nào về trước ( đội có bông hoa là về trước). - Bước 2: Nhận xét đội nào đúng ( mỗi ô vuông đúng đạt 2 điểm) Nếu cả 2 đội đều đúng ( 10 điểm) thì sẽ tuyên dương đội về trước. Trò chơi này có thể ghi 2 phiếu phát cho đầu bàn chuyền tay nhau làm đến em cuối cùng làm xong lên dán kết quả. Nếu đội nào làm đúng và dán kết quả trước sẽ thắng. VD5: Trò chơi “câu cá nhanh giải toán đúng”. Khi dạy bài: “ Bảng nhân 9” sách giáo khoa trang 63 BT2. a) 9 x 6 + 17 b) 9 x 7 – 25 9 x 3 x 2 9 x 9 : 9 Tôi cho cả lớp làm 3 bài còn lại bài 9 x 9 : 9 tôi sẽ ghi vào 3 phiếu và xếp lại bỏ vào con cá được gấp bằng giấy màu có dán nam châm và 3 cây cần câu có 3 miếng mồi bằng sắt. Sau đó cho 3 học sinh đại diện 3 tổ lên thi câu cá. Em nào câu được cá lấy bài toán giải. Em nào giải xong trước, đúng sẽ thắng cuộc( cả lớp cổ vũ “ cố lên, cố lên”). Qua phương pháp sử dụng trò chơi học toán, tối thấy học sinh trung bình, yếu cũng tích cực xin tham gia. Lưu ý nếu học sinh yếu thì tôi chọn bài toán dễ hơn so với học sinh khá, giỏi. 3. Phương pháp dạy học theo nhóm: Dạy học theo nhóm là một hình thức mới đối với giáo viên. Dạy học theo nhóm sẽ giúp học sinh trong nhóm chia sẻ các băn khoăn, kinh nghiệm bản thân, cùng nhau xây dựng kiến thức mới. Bằng cách trao đổi ý kiến, mỗi học sinh có thể nhận rõ trình độ hiểu biết của mình về chủ đề giáo viên đưa ra. Để thấy mình cần học hỏi thêm điều gì. Do vậy, thành công của bài dạy phụ thuộc vào sự tham gia nhiệt tình của từng thành viên trong nhóm. Tuy vậy, dạy học theo nhóm bị hạn chế bởi không gian chật hẹp của lớp học, thời gian hạn định của tiết học. Vì thế giáo viên phải biết tổ chức hợp lý và học sinh đã quen với cách dạy này thì mới có kết quả. Mỗi tiết học chỉ nên có 1 – 2 hoạt động nhóm, mỗi lần hoạt động nhóm từ 5 10 phút. Cần nhớ rằng trong hoạt động nhóm, tư duy tích cực của học sinh phải được phát huy và ý nghĩa quan trọng của phương pháp này là rèn luyện năng lực hợp tác giữa các thành viên trong nhóm. Cần tránh khuynh hướng hình thức và đề phòng lạm dụng, cho rằng tổ chức hoạt động nhóm càng nhiều thì chứng tỏ phương pháp dạy học càng đổi mới. VD1: Bài “ Bảng chia 6” sách giáo khoa trang 24. Tôi cho học sinh lấy tấm bìa có 6 chấm tròn hình thành 6 x 1 = 6. Tôi đặt câu hỏi gợi ý: - Có 6 chấm tròn chia thành nhóm, mỗi nhóm có 6 chấm tròn. Hỏi có bao nhiêu nhóm được chia? ( 1 nhóm). Từ đó rút ra phép chia 6 : 6 = 1. Sau đó tôi cho học sinh thảo luận nhóm đôi. Hai học sinh ngồi cạnh nhau lấy 2 tấm bìa có 6 chấm tròn và thảo luận tìm phép chia 12 : 6 = 2. Tương tự đến tấm bìa thứ 10 cùng thảo luận ghi vào phiếu và gọi các nhóm đọc bảng chia 6 vừa thành lập. Các nhóm còn lại dò và nhận xét. Tôi tiếp tục cho cho học sinh thảo luận nhóm đôi để tìm mối liên hệ giữa phép nhân 6 x 2 = 12 và phép chia 12 : 6 = 2( lấy tích chia cho thừa số thứ 1 ta được thừa số thứ 2 và ngược lại.) Phương pháp này có thể áp dụng cho phép chia 7, 8, 9. VD2: BT1: trang 63 bài “ Bảng nhân 9” lớp 3. 9 x 4 = 9 x 2 = 9 x 5 = 9 x 10 = 9 x 1 = 9 x 7 = 9 x 8 = 0 x 9 = 9 x 3 = 9 x 6 = 9 x 9 = 9 x 0 = Tôi cho học sinh tính nhẩm vào sách giáo khoa bằng bút chì. Sau đó tôi cho học sinh nêu miệng theo hình thức tiếp sức. Rồi hỏi em nào đúng cả 4 cột giơ tay. Các em đều làm đúng bài tập 1. Bây giờ cô sẽ thưởng cho các em một món quà. Các em thích món quà nào nào thì lấy món quà ấy. Ở 3 rổ của 3 tổ tôi để sẳn 4 loại quả: xoài, mận, táo, cam. Hoặc là 4 loại hoa , 4 loại xe, 4 loại con vật nuôi. Sau đó học sinh sẽ họp nhóm theo sở thích vừa lấy và đặt tên nhóm theo tên của món quà đã chọn.( nhóm xoài, nhóm mận, nhóm táo, nhóm cam) để thảo luận nhóm 4 tìm cách giải bài tập 2 sách giáo khoa trang 63. a) 9 x 6 + 17 b) 9 x 7 – 25 9 x 3 x 2 9 x 9 : 9 Từ đó rút ra cách làm: 9 x 6 + 17 và 9 x 7 – 25 ( làm tính nhân trước) 9 x 3 x 2 và 9 x 9 : 9 ( làm từ trái sang phải) Trong nhóm mỗi em làm 1 bài rồi trao đổi kiểm tra nhau. Sau đó gọi 4 học sinh đại diện 4 nhóm lên bảng sửa bài bằng hình thức thi đua “ Ai nhanh hơn” 4. Phương pháp sử dụng phiếu học toán: Phiếu học tập có thể coi là một phần của vở bài tập, có thể làm riêng cho một tiết học hoặc một phần của tiết học, coi như là một phương tiện tổ chức hoạt động. Có nhiều loại phiếu học tập như: phiếu kiểm tra, phiếu học và phiếu thực hành. Sau đây là một ví dụ về “ phiếu học”. Phiếu học là một hệ thống công việc được sắp xếp một cách khéo léo để học sinh tự làm, qua phiếu các em có thể tự mình tìm ra kiến thức mới. Giáo viên chỉ cần nói, hỏi hoặc dẫn dắt ít. VD: Khi dạy bài “ Bảng chia 7” sách giáo khoa trang 35. Nhằm phát huy tính tích cực độc lập của học sinh. Tôi soạn phiếu học cho tiết học này như sau: A Việc 1: Lập bảng nhân 7 A Việc 2: Suy ra bảng chia 7 7 x 1 = . . . 7 : 7 = . . . 7 x 2 = . . . 14 : 7 = . . . 7 x 3 = . . . 21 : 7 = . . . 7 x 4 = . . . 28 : 7 = . . . 7 x 5 = . . . 35 : 7 = . . . 7 x 6 = . . . 42 : 7 = . . . 7 x 7 = . . . 49 : 7 = . . . 7 x 8 = . . . 56: 7 = . . . 7 x 9 = . . . 63 : 7 = . . . 7 x 10 = . . . 70 : 7 = . . . - Phiếu trên áp dụng cho học sinh yếu, trung bình. - Đối với học sinh khá, giỏi thì phiếu học chỉ cần ghi việc 1, việc 2 tự học sinh su
Tài liệu đính kèm: