Bậc Tiểu Học là bậc đặt nền móng cho sự hình thành nhân cách của học sinh. Là bậc học cung cấp các kĩ năng cơ bản ban đầu về tự nhiên xã hội con ngưòi.Là bậc học trang bị những phương pháp kĩ năng ban đầu về hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn. Bồi dưỡng và phát huy những tình cảm thói quen và đức tính tốt đẹp của con người mới Việt Nam xã hội chủ nghĩa.Tất cả các môn học ở bậc tiểu học đều có mối quan hệ mật thiết với nhau hỗ trợ lẫn nhau.Trong tất cả 9 môn học môn Tiếng Việt là môn học có vị trí đặc biệt quan trọng .Môn học này hộ trợ đắc lực cho các môn học khác, và đặc biết môn Tiếng Việt giúp các em giao tiếp một cách dễ dàng. Thông qua môn Tiếng việt các em được thu nhận những tri thức của thế giới xung quanh và được thể hiện mình với mọi người, với thế giới xung quanh. Môn tiếng Việt có rất nhiều phân môn , mỗi phân môn lại có các dặc thù riêng . Trong các lớp của bậc Tiểu học, lớp 1 là lớp quan trọng nhất, là lớp đặt viên gạch đầu tiên cho bậc học . Từ mẫu giáo các em bước vào lớp một học tập sinh hoạt hoàn toàn mới các em phải tiến hành hoạt động học nhiều hơn hoạt động vui chơi. Để giúp các em làm quen và hăng say học tập. Đặc biệt là học môn Tiếng Việt giúp các em đọc đúng viết đúng, viết đẹp làm cơ sở cho các môn học khác và làm tiền đề để học lên lớp trên.
Chữ viết là công cụ dùng để giao tiếp và trao đổi thông tin, là phương tiện để ghi chépvà tiếp nhận các tri thức văn hoá, khoa học và đời sống.
Ở lớp 1 các em học viết là khó nhất . Với phương châm (nét chữ nết người). Dạy tập viết chúng ta sẽ rèn cho các em rất nhiều những phẩm chất đạo đức tốt đẹp như tính kiên trì, bền bỉ, tự giác, độc lập ý
thức vượt qua khó khăn, tính cẩn thận,yêu thích cái đẹp, tinh thần trách nhiệm ý thức tự trọng và thái độ tôn trọng người khác ( thể hiện qua chữ viết). Đặc biệt là lòng tự hào về chữ mẹ đẻ.
iệt là lòng tự hào về chữ mẹ đẻ. Phần thứ nhất Những Vấn đề chung I. Lý do chọn đề tài Tập viết là một phân môn có tầm quan trọng đặc biệt ở bậc tiểu học, nhất là đối với học sinh lớp một. Phân môn tập viết đã trang bị cho học sinh bộ chữ cái la tinh và những yêu cầu kỹ thuật để sử dụng chữ cái đó, trong học tập và giao tiếp. Với ý nghĩa này, môn tập viết không những có quan hệ mật thiết đến chất lượng học tập của các môn học khác mà còn góp phần quan trọng vào việc rèn luyện cho học sinh những phẩm chất đạo đức tốt như : Tính cần thận , tinh thần kỷ luật và khiếu thẩm mỹ. Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng nói : “ Chữ viết cũng là biểu hiện của nết người. Dạy cho học sinh viết đúng, viết cẩn thận, viết đẹp là góp phần luyện cho các em tính cẩn thận, lòng tự trọng đối với mình cũng như đối với thầy và bạn đọc bài vở của mình”. Lâu nay, nhiều thế hệ thầy cô giáo đã trăn trở góp nhiều công sức cải tiến kiểu chữ, nội dung và phương pháp dạy tập viết. Tuy vậy, học sinh vẫn viết sai, viết xấu. Chữ viết thiếu nét, thừa nét, sai chính tả, trình bày bài bẩn, nhiều chữ không đọc đựoc và tốc độ viết còn chậm. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng học tập nói chung. (Vì bất cứ môn học nào cũng cần đến sự ghi chép). Để khắc phục về chữ viết, trong ngành đã dấy nên phong trào thi đua “ Rèn chữ viết đẹp trong giáo viên và học sinh” Với khẩu hiệu “ Mỗi chữ là một bông hoa cả bài viết là một rừng hoa đẹp”. Là một giáo trực tiếp dạy lớp một nhiều năm, qua kinh nghiệm của bản thân và trao đổi với các bạn đồng nghiệp tôi thấy: Để rèn luyện cho học sinh Tiểu học viết đúng, viết đẹp thì cần chú ý đến nền móng ban đầu đó là dạy viết chữ cái và liên kết các chữ cái để ghi tiếng. đây chính là tiền đề để các em viết đúng viết đẹp các tiếng, từ và thành thạo bài viêt sau này. Đó chính là lý do mà tôi chon đề tài “Dạy viết chữ ghi âm cho học sinh lớp 1” II. Mục đích nghiên cứu Tập viết là phân môn rất quan trọng và rất khó khăn với các em học sinh lớp. Thấy được những khó khăn và thuận lợi trong việc dạy viết chữ cho các em học sinh lớp 1. Với kinh nghiệm của bản thân. Để giúp các em có thể viết đúng, viết đẹp và yêu thích tự hào khi viết chữ đẹp rèn cho các em tính cẩn thận ,tính kiên trì..lòng tự hào về chữ mẹ đẻ. và hỗ trợ cho các em học tốt các môn học khác. III. Giới hạn đề tài Dạy viết chữ ghi âm cho học sinh lớp 1 IV. Đối tượng nghiên cứu Học sinh lớp 1A3 trường Tiểu học Yên Thanh V. Nhiệm vụ đề tài Để thực hiện đề tài này cần phải thực hiên những nhiệm vụ sau: - Nghiên cứu lí luận - Tìm hiểu đặc điểm tâm sinh lí của học sinh - Cơ sở khoa học , cơ sở thực tiễn - Đổi mới phương pháp dạy học- Các biện pháp thực hiện - Học sinh viết đúng, viết đẹp chữ ghi âm VI.Phương pháp nghiên cứu 1 Phương pháp nghiên cứu lí luận Nghiên cứu một số tài liêu khoa học giáo dục môn Tiếng Việt ( phân môn tập viết) các sách báo tạp trí có tài liệu liên quan đến việc dạy chữ cho học sinh Tiêu học Các đặc san giáo dục đặc điểm tâm sinh lí học sinh Tiểu học Các bài viết chũ đẹp các cấp , thị xã, cấp tỉnh, cấp quốc gia 2 Điều tra thực trạng Qua dự giờ thăm lớp đồng nghiệp Qua khảo sát chất lượng ban đầu của khối lớp 1, đặc biệt là lớp 1A3 Qua trao đổi với đồng nghiệp và phụ huynh học sinh V. Kế hoạch thực hiện Thực hiện trong năm học 2007- 2008 và năm học 2008 -2009 Nội dung đề tài I.Cơ sơ lý luận: 1 . Đặc điểm tâm sinh lý của học sinh tiểu học : Học sinh Tiểu học có độ tuổi từ 6 đến 11 - 12 tuổi . Lứa tuổi này tư duy đang phát triển, nhận thức của các em còn nặng về nhận thưc cảm tính, nhất là đối với học sinh lớp 1, các em rễ có ấn tượng sâu sắc với các hình ảnh trực quan, có sắc thái cảm xúc. Các em hay bắt chước và làm theo người lớn. Vì thế các hoạt động làm mẫu, các gương người tốt việc thực đều có tác dụng giáo dục rất lớn đối với các em. 2.Cơ sở khoa học : Dạy viết chữ ghi âm cho học sinh lớp 1 ở đây thực chất là dạy viết đúng tiếng mẹ đẻ. Đó là thuận lợi cơ bản của học sinh. ở lớp 1 việc dạy tập viết được phối hợp nhịp nhàng với dạy học âm. Học sinh được luyện viết chữ ghi âm dưới hai hình thức là chủ yếu: Luyện viết chữ ghi âm theo bài học và tập viết theo yêu cầu kỹ thuật trong các giờ tập viết. trên cơ sở đó, người giáo viên phải có trách nhiệm dạy cho học sinh tiếp thu mẫu chữ, hình thành các kỹ năng, kỹ xảo trong tập viết. từ đó giáo viên phải chú ý đến từng đối tượng, tác động trực tiếp đến từng học sinh trong lớp theo tinh thần dạy học mới, lấy học sinh làm trung tâm, “ Trẻ em là đối tượng chủ yếu của quá trình dạy và học. nhà trường tồn tại là vì trẻ em. Vì vậy trẻ em phải đặ vào vị trí trung tâm của giáo dục dạy học”. ( Theo Phạm Bá Hoành - Viện khoa học GD). Trên nguyên tắc đó, phương pháp dạy học mới là, dạy học tổ chức cho học sinh hoạt động : Học theo lớp, học theo nhóm (tổ) tự học cá nhân. Từ đó sẽ phát huy được tính tích cực, chủ động sáng tạo và phấn đấu vươn lên của từng cá nhân. Tiếp thu những lý luận trên tôi đã từng bước vận dụng và dạy viết chữ ghi âm cho học sinh lớp tôi theo tinh thần đổi mới phương pháp dạy và học. I Cơ sở thực tiễn: Năm học này tôi được BGH nhà trường phân công dạy lớp 1 bán trú. Tổng số học sinh có 35 em đều nằm trong phổ cập ra lớp. Qua kinh nghiệm của bản thân đã dạy lớp 1, ngay từ những ngày đầu ổn định lớp, tôi đã ra bài tập để khảo sát chất lượng ban đầu về chữ viết của học sinh bằng cách : tôi yêu cầu học sinh viết chữ cái o, a vào bảng cá nhân. Dựa vào cách viết tôi đã phân loại học sinh trong lớp như sau : + Viết đúng các chữ o, a : 13 em. + Viết được hình dáng chữ nhưng chưa đúng: 14 em. +Chưa biết viết: 5 em. Qua tìm hiểu và tiếp xúc với các em, tôi thấy : 5 em này là những em chưa qua mẫu giáo và ít được sự quan tâm của gia đình do trình độ nhận thức và văn hoá của bố mẹ còn hạn chế. Với chất lượng trên. Tôi rất băn khoăn làm thế nào để các em theo kịp với các bạn trong lớp và học được chương trình thay sách hiện tai, đáp ứng được chất lượng chỉ đạo chung của nhà trường nên tôi đã đề ra những biện pháp để rèn luyện học sinh viết chữ ghi âm như sau . III.Các biện pháp và thực hiện Sắp xếp chỗ ngồi cho học sinh. Đối với học sinh lớp 1 thì vị trí ngồi cũng ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả học tập của học sinh. Vị trí bàn 1 và bàn 2 dành cho những em mắt kém, nhỏ, tiếp thu chậm, chưa biết viết ngồi trên,những em cao ngồi dưới. Tôi chú ý xếp xen kẽ những em hiếu động ngồi kèm bên em hiền lành ít nói để các em nhắc nhở nhau chú ý nghe giảng. Như vây sẽ dễ theo dõi kèm cặp các em hàng ngày. Giúp học sinh nhận biếtcác nét cơ bản Để các em dễ tiếp thu kiến thức về mẫu chữ, ngay từ bài học đầu tiên của tiết học vần tôi đã dạy cho học sinh nắm được hình dáng, tên gọi các nét cơ bản của Tiếng Việt. Cụ thể là : Nét xiên phải Nét xiên trái Nét móc ngược Nét móc hai đầu Nét móc xuôi Nét móc hai đầu Nét vắt (b, r, s ) nét thẳng đứng nét thẳng ngang nét cong khép kín nét cong hở trái nét cong hở phải nét khuyết trên nét khuyết dưới.. Từ chỗ học sinh đã nắm được các nét cơ bản, tôi tiến hành rèn cho học sinh theo các bước sau : 3. Luyện viết bảng cá nhân Đối với học sinh lớp 1, bảng cá nhân quan trọng hàng đầu khi luyện viết (vì nó dễ viết và dễ xoá khi sai). Để học sinh ban đầu viết đúng cỡ chữ nhỡ, tôi yêu cầu phụ huynh học sinh phải mua đúng bảng mich hoặc bản Thiên Long( vì hai loại bảng này đều có dòng kẻ ô li rõ ràng).Trước hếtkhi dạy học sinh luyện viết, giáo viên phải hướng dẫn để học sinh nhận và phân biệt tên gọi các dòng kẻ trên bảng, trong vở. Ghi chú: 1 : đường kẻ ngang trên. 2 : đường kẻ ngang giữa. 3 : đường kẻ ngang dưới. 4 : Đường kẻ dọc chia ô vuông. Từ đường kẻ thứ nhất đến đường kẻ thứ hai là 1 dòng. Trong 1 dòng có 5 dòng kẻ li. việc xác định vị trí các đường kẻ ngang, dọc, một dòng kẻ, các ô vuông và các dòng kẻ li trên bảng, trong vở là rất cần thiết khi cho các em học sinh luyện viết ban đầu. Có như vậy các em mới xác định được toạ độ biết được điểm đặt phấn, biết được điểm tựa của các nét dể viết đúng ô, đúng dòng, không leo lên trèo xuống vượt quá dòng quy định. Trong phần luyện viết bảng,giáo viên cần chú ý luyện cho học sinh + Với nhóm học sinh đã biết viết và nhận thức nhận thức nhanh tôi chỉ việc gợi mở để các em tự xác định được ô, dòng, chiều cao độ dài rộng của các nét hoặc chữ để viết đúng rõ ràng và đẹp. + Với nhóm học sinh chưa viết đúng, nhận thức trung bình, tôi phải hướng dần kỹ hơn để các em nhận biết được điểm đặt phấn, bút, cách lia phân, bút từ trái qua phải hoặc từ phải qua trái, biết được độ cao, độ dài các nét, xác định được điểm tựa để viết các nét tạo thành chữ. Sau đó giáo viên viết mẫu vào khung kẻ quy định để học sinh quan sát và viêt theo mẫu. + Với nhóm học sinh nhận thức quá chậm, chưa biết viết, tôi phải thường xuyên quan tâm hàng ngày. Luôn động viên hướng dẫn thật tỉ mỉ cách viết, kết hợp cầm tay uốn nắn luyện viết cho học sinh chịu viết ngay từ những bài đầu tiên.Như vậy, học sinh sẽ không bị hổng kiến thức và dần dần sẽ theo được các bạn . a. Luyện viết các nét cơ bản : Khi học sinh đã biết được tên gọi của các nét cơ bản, tôi tiến hành hướng dẫn cho học sinh luyện viết từng nét thật cứng cáp rõ ràng và quen tay (vì các chữ viết sau này đều do các nét cơ bản tạo thành) Ví dụ : Hướng dẫn viết nét móc ngược ( ) Khi giới thiệu nét móc tôi phải có chữ mẫu trên khung dòng kẻ li để học sinh qua sát và tôi hỏi : Nét móc ngược cao mấy dòng kẻ li? Điểm đặt phấn và điểm dừng ở vị trí nào trên dòng kẻ? Học sinh trả lời, tôi kết hợp vừa viết vừa giả thích: khi viết nét móc ngược, điểm đặt phấn xuất phát từ đường kẻ li số 2 (ở dưới lên ) rê phấn xuống 2 dòng li, chạm dòng li dưới hất móc sang phải điểm dừng phấn ở dòng kẻ li thứ nhất(từ dưới lên) ta viết được nét móc hoàn chỉnh. Mỗi nét móc được viết cách nhau một ô vuông trong bảng. Cứ như vậy tôi hướng dẫn cho học sinh rèn luyện viết hét các nét cho thật đúng, đẹp. Khi học sinh đã viết quen tay, đúng nét tôi hướng dẫn cho học sinh nhận dòng kẻ trong vở và viết theo mầu từng dòng. Trong khi học sinh thực hành viết, tôi phải chú ý hướng dẫn các em cách ngồi viết đúng tư thế như lưng thẳng, ngực không tì vào bàn, đầu hơi cúi, mắt cách vở khoảng 25 đến 30 cm tay phải cầm bút, tay trái tỳ nhẹ lên mép vở để giữ, hai chân để song song thoải mái ngoài ra tôi còn hướng dẫn cho học sinh cách cầm phấn, bút đặt bảng (hoặc vở )sao cho đúng những việc làm này tưởng như rất đơn giản song lại là viếc hết sức quan trọng và cần thiết đối với học sinh lớp 1 a. Luyện viết âm ( chữ cái theo bài học) Phần này chủ yếu học sinh được luyện vào cuối tiết 1 (học Tiếng Việt) Thời gian được luyện viết rất ít nhưng rất quan trọng vì các em vừa được học âm, nhận chữ ghi âm, đồng thời được luyện viết để khác sâu chữ ghi âm học trong ngày. Ví dụ: Khi dạy bài 13: n, m Sau khi học sinh đọc bài và nhận dạng được chữ n, m trong bài giáo viên treo chữ mẫu hoặc giới thiệu chữ (n, m ) trong khung dòng kẻ li cho học sinh quan sát, giáo viên giới thiệu chữ n viết và hỏi: “ chữ cái n” gồm mấy nét ? Là những nét nào ? Học sinh trả lời : Giáo viên dùng que nhỏ chỉ theo và giảng giải : chữ cái n gồm 2 nét, nét móc xuôi và nét móc hai đầu đều cao 2 dòng kẻ li . Khi viết chữ cái ( n ) điểm đặt bút, phấn và điểm kết thúc ở vị trí nào trên dòng kẻ? Học sinh trả lời, Giáo viên kết hợp viết mẫu và giải thích: khi viết chữ cái ( n ) điểm đặt phấn, bút từ dòng kẻ li thứ 2 (từ dưới lên) viết nét móc xuôi dựa vào dòng kẻ dọc rê bút xuống, điểm dừng phấn, bút ở dòng li thứ nhất( từ dưới lên) sau đó rê phấn, bút lên cao bằng nét móc xuôi để tạo nét móc hai đầu, điểm dừng của nét móc hai đầu ở dòng li thứ 2 độ rộng từ nét móc xuôi sang nét móc hai đầu là 1 ô li rưỡi ta được chữ ( n )hoàn chỉnh. Mỗi chữ cái ( n )được viết cách nhau 1 ô vuông trong bảng, vở. Giáo viên cần lưu ý : khi viết mẫu nhất thiết phải để cho học sinh cả lớp được quan sát thấy tay giáo viên viết. Có như vậy các em mới viết đúng, viết xuôi chiều, không viết ngược. Khi giáo viên hướng dẫn cách viết xong cho vài em nêu lại quy trình viết, từ đó cả lớp cùng viết vào bảng con. Luyện viết các chữ cái đều có sự liên kết chữ trước với chữ sau như : đã viết đúng “ chữ cái n” thì viết sang “ chữ cái m” học sinh chỉ việc so sánh nhận ra điểm giống nhau ( đều có các nét móc) nhưng “ chữ cái n” chỉ có hai nét móc, còn “ chữ cái m” có ba nét móc nối liền nhau. (Nét 1 là nét móc xuôi trái, nét 2 tiếp tục là nét móc xuôi trái nhưng độ rộng lớn hơn nét 1, nét 3 là nét móc hai đầu ) giáo viên két hợp viết mẫu cho các em quan sát nhận diện quy trình và kỹ thuật viết .Từ đó các em sẽ viết được chữ m dễ dàng. Khi dạy chữ ( l )giáo viên đưa chữ mẫu hướng dẫn học sinh nhận biết độ cao, các nét và giáo viên hướng dẫn cách viếtchữ ( l ) là nét viết kết hợp của hai nét cơ bản : Nét khuyết trên ( nét khuyết xuôi ) và nét móc ngược phải. Đặt bút trên dòng kẻ thứ 2 viết nét khuyết đầu chạm dòng kẻ thứ năm đưa mềm thẳng xuống gần chạm dòng kẻ 2 lượn mềm viết nét ngược phải rộng 1 li rưỡi điểm dừng ở dòng kẻ 2. sau đó giáo viên viết mẫu đúng , đẹp .. Ngoài dạy viết chữ cái ghi âm, tôi còn dạy cho học sinh viết liền mạch các chữ để tạo thành tiếng, từ. Luyện viết chữ ghi tiếng, từ : Khi dạy cho học sinh luyện viết chữ ghi tiếng, từ, giáo viên cần chú ý cho học sinh nắm được cấu tạo chữ trong tiếng. Viết đúng độ cao, độ rộng của các chữ, cách nối các chữ cái liền mạch và vị trí các dấu mũ, dấu phụ dấu thanh ( ô, ă,â, ê, i, ơ ) các dấu này viết đúng vị trí không quá xa, cũng không gần quá hoặc vị trí các dấu thanh ( ` ~ ? ) đặt chúng trên đầu âm chính và xuôi chiều từ trên xuống hoặc thanh nặng ( . ) cũng đặt dưới âm chính. Có như vậy ngay từ ban đầu các em sẽ viết đúng và đẹp . Ví dụ : Dạy viết chữ ( bò ) trong bài 9 Khi dạy viết chữ “bò” Giáo viên cũng phải có chữ mẫu trong khung dòng kẻ li cho học sinh quan sát rồi hỏi về cấu tạo chữ “ bò” độ cao của các chữ cái, cách nối các chữ cái và vị trí dấu thanh. Học sinh trả lời . Giáo viên kết hợp vừa viết mẫu vừa giải thích : Khi viết chữ “bò” Ta viết chữ cái b trước cao 5 dòng li, nối liền mạch sang chữ cái o cao hai dòng li, dấu thanh huyền đặt ở dòng li thứ 3 (từ dưới lên ) trên đầu chữ cái o nghiêng phải ta được dấu thanh huyền tạo thành chữ “bò”. Mỗi chữ ghi tiếng “bò” cách nhau một ô vuông. Khi học sinh đã viết được chữ ghi tiếng thì cần luyện cho các em biết cách viết từ. Ví dụ : Dạy viết từ “lá mạ” ( bài 16 ) Vào giờ viết, giáo viên cũng phải có chữ mẫu trên khung dòng kẻ li cho học sinh quan sát rồi hỏi :Trong từ “lá mạ” có mấy chữ ghi tiếng? Khi viết“lá mạ” ta viết chữ nào trước, chữ nào sau? Khoảng cách các chữ trong từ cách nhau như thế nào? Học sinh trả lời.Giáo viên cũng kết hợp vừa viết mẫu vừa giải thích. Khi viết từ “lá mạ”, ta viết chữ “lá” trước, cách 1/2 ô vuông( hoặc bằng 1 chữ cái o ) ta viết tiếp chư “mạ”. Như vây ta viết được từ “lá mạ” Viết từ thứ nhất đến từ thứ hai cách nhau bằng một ô vuông trên bảng. có như vậy khi viết từ các em không viết rời rạc và nâng dần trình độ viết sau này cho các em. Khi viết bảng, để khắc sâu kiến thức, lần 1, tôi cho học sinh nhìn mẫu viết; lần 2 tôi xoá bảng đọc lại chữ vừa hướng dẫn, học sinh tư duy tái hiện ghi lại bảng cá nhân đúng chữ nghe đọc. Khi giơ bảng, giáo viên cần nhận xét chữ viết của học sinh động viên kịp thời các em và rút kinnh nghiệm cho lần sau. Với học sinh chưa viết được hoặc viết còn xấu, tôi trực tiếp hướng dẫn các em ngay trên bảng cá nhân kịp thời động viên khích lệ để các em cô gắng viết cho đẹp, đúng hơn. 4. Luyện viết trong vở : a.Luyện viết trong vở tập viết. Khi hướng dẫn học sinh viết bài trong vở tập viết, để đạt được hiệu quả cao, tôi chú ý hướng dẫn thật kỹ trong các bước quan sát và phân tích mẫu chữ. Giúp học sinh nhận ra mối quan hệ giữa chữ đã học và chữ đang học. Trước khi học sinh viết bài vào vở, học sinh phải được luyên viết trên bảng cá nhân. Giáo viên cần chú ý đến điểm đặt bút và kết thúc khi viết chữ đó. Khi luyện viết trong vở cũng như luyện viết trên bảng cá nhân giáo viên cần hướng dẫn cho các em viết đúng độ cao, độ dài, rộng của chữ ghi âm, tiếng, từ, cách nối các nét liền mạch , vị trí các dấu phụ hoặc các dấu thanh, viết đúng khoảng cách các chữ ghi âm, tiếng, từ và trình bày bài sạch đẹp. Trong khi các em luyện viết giáo viên nên bao quát lớp kèm cặp các em viết xấu, viết chữ đúng kịp thời uốn nắn sửa cho từng em cụ thể Để có đánh giá kịp thời và chính xác kết quả học tập của lớp tôi thường xuyên chấm chữa bài cho học sinh ở cuối tiết học. Mỗi giờ tập viết tôi chấm từ 7 đến 10 bài tại lớp để nhận xét đánh giá khích lệ, động viên các em kịp thời và cũng nắm rõ trình độ viết cụ thể của từng em từ đó đề ra biện pháp kèm cặp cụ thể cho các em chưa viết đẹp, viết đúng. Để luyện viết các em không những được luyện viết trong vở tập viết , trong bảng mà tôi còn luyện cho học sinh luyện viết trong vở kẻ li b, Luyện viết trong vở kẻ li Phần này không nằm trong chương trình của phân môn tập viết, nhưng luyện viết trong vở kẻ li rất có tác dụng cho việc luyên viết chữ sau này. Với vở kẻ li, tôi quy định viết vở có 5 dòng kẻ li ( vở của công ty Hải Tiến ) vì loại vở này chất lượng đảm bảo có tác dụng chống loá, và có dòng kẻ li giống với vở tập viết như vậy các em sẽ dễ luyện viết hơn không dùng loại vở khác( vì dòng kẻ li quá nhỏ hoặc quá to ) Trong vở kẻ li tôi thường xuyên viết mẫu hai tuần đầu theo bài học Tiếng việt , học gì viết đấy vừa củng cố cho học sinh bài vừa học đồng thời luyệ viết cho quen. Mỗi bài học tôi viết từ hai đến 4 dòng mẫu độ cao là 2 và 5 dòng li trong vở theo mẫu chữ quy định. Bên cạnh đó năm học này phòng giáo dục chỉ đạo sử dụng vở luyện viết chữ đẹp cho học sinh lớp 1 sử dụng vở tập viết của tác giả Trần Mạnh Hưởng đẫ giúp tôi rất nhiều trong việc rèn luyện chữ viết cho học sinh. Trong vở đã có chữ viết mẫu tôi thường ra bài về nhà cho các em vào những ngày nghỉ để các em nhìn mầu chữ viết cho đúng, đẹp Ví dụ bài 2 Trong vở kẻ li tôi viết mầu Chữ “e”cao hai dòng kẻ li Chữ “b”cao 5 dòng kẻ li Chữ “be” viết kết hợp nối liền mạch giữa các chữ b với chữ e được chữ “ be” Học sinh thường được viết vào các tiết luyện tiếng viết hoặc giừo bồi dưỡng rèn học sinh môn Tiếng Việt buổi chiều. Sau đó tôi yêu cầu học sinh tự nhận dòng kẻ viết bài theo mẫu xuống dòng dưới Từ tuần thứ 3 tôi không viết mẫu ttrong vở cho học sinh nữa mà tôi đọc chính tả để học sinh tư duy tái hiện nghe đọc tự viết vào vở. Không những tôi đọc chữ học hàng ngày mà tôi thường tìm các tiếng từ khác có chứa âm vừa học, đã học để học sinh viết có tư duy ôn lại bài cũ và phát triển thêm vốn từ cho học sinh .Tạo không khí mới mẻ không nhàm chán gây hứng thú học tập cho các em.Có như vậy học sinh không những được ôn lại củng cố khắc sâu kiến thức giúp các em luyện viết mà còn đọc và ghi nhớ các chữ cái một cách chắc chắn 5 Kỹ năng kỹ xảo trong khi viết Con đường hình thành các kỹ năng, kỹ xảo trong tập viết là : Tập cho học sinh các thao tác từ cách cầm bút, đặt quyển vở, tư thế ngồi viết của học sinh đến việc rèn các nét, các chữ trong các tiết học tập viết, tiếng việt sao cho trong 6 tuần học tiếng việt và luyện viết học sinh phải đạt được kỹ năng nghe đọc viết đúng chữ ghi âm không thừa, hoặc không thiếu nét hay một số tiếng, từ đơn giản. Các bước trên tôi không những luyện cho học sinh luyện viết ở lớp mà còn được luyện viết ở nhà, trên bảng và vở kẻ li theo bài học tôi đã quy định. Qua kinh nghiệm luyện viết trên, kết quả đạt được về chữ viết qua kiểm tra giữa kỳ I là: + Giỏi: 25 em + Khá: 7 em + Trung bình : 3 em Với kết quả trên tôi cảm thấy chưa thoả mãn nên tôi đã kết hợp với phụ huynh dùng tiền quỹ lớp để mua vở thưởng động viên các em trong học tập: + Với học sinh viết sạch đẹp, đạt loại Giỏi: thưởng 3 quyển vở. + Với học sinh Khá : thưởng 2 quyển vở + Với học sinh Trung bình nhưng có cố gắng thưởng 1 quyển vở. Từ những quà thưởng nhỏ và với những lời động viên cũng đã khuyến khích học sinh thi đua vươn lên trong học tập. Bên cạnh đó, tôi vẫn duy trì các bước luyện viết trên nhưng về kỹ năng nâng cao hơn. Từ tuần 3 trở đi, tôi cho học sinh viết chính tả nghe đọc vào vở kẻ li ( cuối tiết 2 ). Khi đọc, tôi phải đọc thật chuẩn các chữ ghi âm, học sinh nghe viết đúng chữ nghe đọc .Tiếng thì tôi đánh vần chậm để học sinh nghe chữ nào tôi đọc trước thì học sinh viết trước; chữ nào nghe đọc sau thì các em viết sau. Khi đặt dấu thanh, tôi nhấn giọng ở âm nào thì các em đặt dấu thanh ở âm đó. Cuối buổi học Tiếng việt, học sinh ít nhất cũng được luyện viết vào vở kẻ li từ 2 đến 3 dòng chữ ghi âm tiếng, từ vừa học. Không những học sinh luyện viết các chữ ghi âm học trong ngày mà tôi còn đọc một số âm, tiếng, từ mở rộng để học sinh viết, nhằm nâng cao kỹ năng nghe đọc và viết cho học sinh. Không những học sinh nghe đọc viết mà tôi còn luyện cho các em tự nhìn bài học trong sách giáo khoa chép lại các từ và câu ứng dụng, từ chữ in các em tự viết thành chữ viết vào vở kẻ li. Các kỹ năng viết này, tôi vẫn rèn tiếp cho học sinh sang thời kỳ viết chữ ghi vần, tiếng, từ và sang giai đoạn tập chép, chính tả. V.Kết quả công viêc. Do hiểu được tầm quan trọng của việc dạy âm và viết chữ ghi âm nên ngay từ đầu năm học tôi đã chú ý rèn cho học sinh nên 100% các em nắm chắc các âm và viết đúng chữ ghi âm đã học.Tuy vậy chữ viết của các em chưa đồng đều. Có nhiều em viết đẹp, trình bày bài sạch sẽ nhưng bên cạnh đó vẫn còn một số em viết chữ chưa đẹp. Kết quả thi môn Tiếng việt về chữ viết giữa học kì II cho thấy: + Loại giỏi: 28 + Loại khá: 4 - Kết quả chấm vở sạch chữ đẹp của học sinh tháng ba cho thấy : + Loại A: 32 em + Loại B: 3 em Hơn nữa, tôi rất vinh dự ở lớp có 3 em Nguyễn Anh Đức, Nguyễn Bạch Nhật và em Nguyễn Hiền Linh được trường tuyển chọn tham gia hội thi viết chữ đẹp cấp thị xã đều đạt giải nhất, và chọn em Nguyễn Anh Đức đi dự thi viết chữ đẹp cấp tỉnh đạt giải nhất Chất lượng thi cuối năm về chữ viết : + Cuối năm: Xếp loại giỏi: 32 em ; Xếp loại khá : 3 em Giải nhất cấp tỉnh : 1 em Giải nhất cấp thị xã : 2 em Giải nhì cấp thị xã
Tài liệu đính kèm: