Tập viết là một phân môn có tầm quan trọng đặc biệt ở Tiểu học, nhất là học sinh liứp 1. Học vần, tập đọc giúp học sinh đọc thông, tập viết giúp các em viết thạo. Đọc thông viết thạo có quan hệ mật thiết với nhau, cũng như dạy tập viết, học vần, tập độc không thể tách rời nhau. Viết đúng mẫu, rõ ràng và nhanh, học sinh sẽ có điều kiện ghi chép bài học của tất cả các môn học tốt hơn.
Ngoài ra phân môn tập viết còn góp phần quan trọng vào việc rèn luyện cho học sinh những phẩm chất đạo đức tốt như tính cẩn thận, tinh thần kỹ luật và óc thẩm mỹ. Thủ tướng Phạm Văn Đồng lúc sinh thời đã nói : “Chữ viết cũng là một biểu hiện của nết người. Dạy cho học sinh viết đúng, viết cẩn thận, viết đẹp là góp phần rèn luyện cho các em tính cẩn thận, lòng tự trọng đối với mình cũng như đối với thầy cô giáo và bạn đọc bài vở của mình”.
Để có khả năng dạy tốt phân môn tập viết ở tiểu học theo nội dung sách giáo khoa và vở tập viết, ta đã biết mục tiêu của phân môn tập viết nhằm rèn luyện kỹ năng viết chữ cho học sinh, trọng tâm là chữ viết hoa. Rèn luyện kỹ năng viết là kết hợp dạy kỹ thuật viết chữ với rèn chính tả; mở rộng vốn từ; phát triển tính cẩn thận, óc thẩm mỹ, ý thức tự trọng và tôn trọng người khác.
Đã có nhiều giáo viên trăn trở góp nhiều công sức cải tiến kiểu chữ, nội dung và phương pháp dạy tập viết. Vậy với học sinh lớp 1, 2, 3 nếu giáo viên chú trọng đến việc rèn luyện chữ viết cho học sinh để từng bứoc hình thành thói quen viết chữ đẹp và yêu thích viết chữ.
Vậy vấn đề đặt ra là “Nâng cao chất lượng chữ viết cho học sinh tiểu học” được thực hiện như thế nào ?
bản trong giờ Tập Viết. Ngoài ra việc rèn luyện kĩ năng tập viết còn được triển khai trong các giờ chính tả và tập làm văn. Trên tinh thần này, tuy lớp 4 và lớp 5 không có giờ tập viết song kĩ năng tập viết vẫn cần phải được chú ý rèn luyện thêm ở mức độ cao hơn và tổng hợp hơn. 2.2. Vở tập viết Vở tập viết do nhà xuất bản giáo dục ấn hành là phương tiện để HS luyện chữ viết. Từ lớp 1 đến lớp 3, mỗi lớp có 2 quyển ứng với tập một và tập hai của sách giáo khoa Tiếng Việt. a) Vở Tập viết 1 Vở tập viết 1 bám sát theo nội dung và yêu cầu SGK Tiếng Việt 1, gồm hai tập. Phần học vần từ bài 1 đến bài 103, nội dung tập viết được chia theo từng bài học. Ở đầu một số bài, chữ cái mẫu được viết theo cỡ chữ to trên phần kẻ ô vuông và có thể hiện rõ quy trình viết cho HS dễ theo dõi. Học sinh tập viết theo cỡ chữ vừa các chữ ghi âm, vần và các từ ngữ ứng dụng. Phần luyện tập tổng hợp, nội dung tập viết yêu cầu HS bước đầu làm quen chữ hoa và luyện viết các từ ứng dụng. Các bài tập viết được chia theo tuần. Mỗi bài ghi hai phần : A và B. Phần A là phần tập viết ở lớp, phần B là phần tập viết ở nhà. Phần A có chữ mẫu viết hoa cỡ to trên phần kẻ ô vuông với các chỉ dẫn quy trình viết để HS quan sát. Bên phải chữ mẫu là các chữ hoa cỡ vừa thể hiện bằng các nét chấm chấm để HS tập tô bước đầu làm quen với chữ viết hoa. Cuối bài, HS tập viết các vần, từ ngữ ứng dụng theo mẫu viết ở đầu dòng. Phần B dành cho luyện tập ở nhà, gồm hai nội dung : -Tập tô các chữ viết hoa cỡ vừa. -Tập viết các vần, từ ngã cỡ chữ vừa theo mẫu trình bày ở đầu dòng. Từ bài tập tô chữ Q đến hết năm học, HS bắt đầu tập viết cỡ chữ nhỏ sau khi tập viết cỡ chữ vừa. b) Vở tập viết 2 Mỗi bài tập viết ở lớp 2 được thiết kế trên hai trang vở có chữ viết mẫu (cỡ vừa và nhỏ) trên dòng kẻ li. Cấu trúc cụ thể như sau : Trang lẻ : -Tập viết ở lớp (kí hiệu l ) +Giới thiệu chữ mẫu cỡ lớn trên khung kẻ ô vuông, với quy trình viết. +Một dòng viết chữ hoa cỡ vừa. +Hai dòng viết chữ hoa cỡ nhỏ. +Hai dòng viết ứng dụng tiếng (Một cỡ vừa và một cỡ nhỏ). +Ba dòng viết ứng dụng cụ từ (câu) theo cỡ nhỏ. -Tập viết nghiêng (kí hiệu « - tự chọn) : một dòng chữ, một dòng tiếng và một dòng cụm từ (câu) ứng dụng theo cỡ nhỏ. Trang chẵn : -Luyện viết ở nhà ( kí hiệu n ) +Hai dòng viết chữ hoa. +Hai dòng viết ứng dụng tiếng. +Bốn dòng viết ứng dụng câu. Tất cả các dòng trên đều viết với cỡ chữ nhỏ. -Tập viết nghiêng (kí hiệu « - tự chọn) : một dòng chữ hoa, một dòng tiếng ứng dụng và năm dòng cụm từ (câu) ứng dụng. c) Vở tập viết 3 : Cũng như lớp 2, vở tập viết 3 bám sát nội dung bài học trong SGK Tiếng việt 3 (tuần 31) : ôn tập, củng cố cách viết 29 chữ cái viết hoa và một số tổ hợp chữ ghi câu đầu có chữ cái viết hoa (ví dụ : Ch, Gh,Gi..) ; luyện viết ứng dụng các tên riêng, các câu (tục ngữ, ca dao, thơ) có số chữ dài hơn ở lớp 2 Nên lưu ý là : Tuy 4 tuần ôn tập và kiểm tra định kì không có tiết dạy tập viết trên lớp, nhưng vở tập viết 3 vẫn có nội dung luyện viết thêm (ở nhà) để HS luyện kĩ năng viết chữ và trình bày một đoạn văn (hoặc một bài ngắn). Về mặt trình bày, về cơ bản mỗi bài trong vở Tập viết 3 có cấu trúc đồng dạng với vở tập viết 2. Cụ thể như sau : Trang lẻ -Tập viết ở lớp (kí hiệu l) + Hai dòng viết chữ hoa cỡ nhỏ (một dòng ôn lại chữ cái viết hoa hoặc tổ hợp chữ ghi âm đầu có chữ cái viết hoa đã học ở lớp 2, một dòng củng cố thêm 1,2 chữ cái viết hoa hoặc tổ hợp chữ ghi âm đầu có chữ cái viết hoa xuất hiện trong tên riêng hoặc câu ứng dụng). Trọng tâm là luyện viết dòng thứ nhất. + Hai dòng viết ứng dụng tên riêng theo cỡ nhỏ. + Bốn viết dòng ứng dụng câu (tục ngữ, ca dao, thơ) theo cỡ nhỏ. -Tập viết nghiêng (kí hiệu «- tự chọn): Lặp lại tên riêng và câu ứng dụng nhưng viết theo kiểu chữ nghiêng, cỡ nhỏ. Trang chẵn -Luyện viết ở nhà (kí hiệu n) HS luyện viết chữ hoa cần ôn và một số từ ngữ trong câu ứng dụng cần chú ý về kỹ thuật nối nét (viết liền mạch); luyện viết tên riêng và câu ứng dụng trong bài -Tập viết nghiêng (kí hiệu « - tự chọn) Lập lại tên riêng và câu ứng dụng nhưng viết theo kiểu chữ nghiêng, cỡ nhỏ. Sau mỗi chữ viết mẫu, trên mỗi dòng kẻ đều có điểm đặt bút ( dấu chấm) với những dụng ý như đã nói ở vở tập viết 2. 3/. Một số quy định về dạy và học viết chữ 1. Trong trường Tiểu học, học sinh học viết chữ thường, chữ số và chữ viết hoa theo kiểu chữ viết đứng, nét đều là chủ yếu. Ở những nơi có điều kiện thuận lợi, giáo viên có thể dạy hoặc giới thiệu thêm cách viết chữ thường, chữ viết hoa theo kiểu chữ viết nghiêng, nét thanh, nét đậm. 2. Việc dạy chữ viết hoa được tiến hành theo một quá trình từ nhận diện, tập tô, tập viết nét cơ bản đến viết từng chữ cái ; từ viết đúng đến viết thành thạo, viết đẹp. Sau đây là một số lưu ý về chữ viết hiện hành: Nhìn chung, chữ viết cần đảm bảo một số yêu cầu cơ bản sau đây : -Dễ đọc, dễ biết; -Cần đảm bảo phân biệt giữa chữ này với chữ khác ; -Cần đảm bảo tính thẩm mĩ -Tạo điều kiện cho việc viết liền mạch để tăng tốc độ khi viết. Quan điểm giải quyết các yêu cầu đó ở mỗi thời kì khác nhau nên nảy sinh ra nhiều bộ chữ viết khác nhau. Có thể kể đến một số bộ chữ như sau : -Chữ viết cải cách giáo dục (chưa chỉnh lí ) : với quan niệm đơn giản hóa cách viết cho người học nên bộ chữ viết cải cách giáo dục (chưa chỉnh lí) chủ trương bỏ các nét dư. Đây là một chủ trương sai lầm, vi phạm nguyên tắc phân biệt, ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính thẩm mĩ và ảnh hưởng đến tốc độ viết. Bỏ các nét dư của các con chữ trong một chữ không có nét liên kết khiến người viết phải dừng lại nhiều lần, nhấc tay lên nhiều lần nên tốc độ viết rất chậm, chữ viết lại bị cất vụn ra rất xấu. -Chữ viết chỉnh lí : Nhận thấy những nhược điểm của chữ viết cải cách, chúng ta đã chỉnh lí lại bằng cách công nhận các nét dư. Chữ viết đẹp hơn, tốc độ viết của học sinh tăng lên rõ rệt. tuy vậy, chữ viết này hơi thấp nên ảnh hưởng đến tính thẩm mĩ. -Chữ viết hiện hành : Bộ chữ viết hiện hành về cơ bản giống bộ chữ viết chỉnh lí nhưng có bổ sung thêm một số thay đổi cho chữ viết đỡ thấp và đẹp hơn. Các chữ cũng theo quy định cũ : +Các chữ một đơn vị chiều cao : a, ă, â, c, e, ê, i, m, n, ô, o, ơ, u, ư, v, x (các chữ ă, â, e, ê, ô, o, ư về cơ bản vẫn là một đơn vị chiều cao, có thêm dấu phụ nằm phía trên). +Các chữ 2 đơn vị chiều cao : d, đ, q, p. +Các chữ 1,5 đơn vị chiều cao : t Các chữ có điều chỉnh chiều cao +Các chữ 2,5 đơn vị chiều cao : b, g, h, k, l, y (cũ là hai đơn vị). +Các chữ 1,25 đơn vị chiều cao : r, s 3/. Các giải pháp nâng cao chất lượng dạy và học tập viết ở tiểu học *Giải pháp thứ nhất : Tạo điều kiện chuẩn bị cho việc dạy học tập viết Hiệu trưởng, tổ khối chuyên môn có trách nhiệm chỉ đạo, thực hiện việc nâng cao chất lượng dạy và học viết chữ ở các trường tiểu học theo văn bản hướng dẫn của cấp trên. Tiếp tục đẩy mạnh phong trào luyện viết chữ đẹp cho giáo viên, học sinh và tổ chức các cuộc thi viết chữ đẹp hằng năm ở các lớp. Tăng cường cơ sở vật chất, thiết bị dạy học nhằm tạo điều kiện tốt cho việc dạy và học viết chữ, mỗi lớp học cần trang bị đầy đủ mẫu chữ viết của Bộ ban hành. Nhất là bảng con cho họch sinh viết nhất là đối với học sinh lớp 1. Giáo viên cần đánh giá chất lượng chữ viết của học sinh, trên tinh thần góp ý, hướng dẫn để giúp học sinh thấy rõ thành công hay hạn chế trong bài tập viết. Cho điểm theo quy đinh, nhận xét, góp ý, nêu yêu cầu với học sinh về chữ viết. Thường xuyên uốn nắn học sinh về tư thế ngồi viết, cách cầm bút, cách để vở, giữ khảng cách giữa vở và mắt. *Giải pháp thứ hai : Tìm hiểu nguyên nhân học sinh viết chữ xấu -Do thói quen viết chữ không cẩn thận, thiếu kiên trì, nhẫn nại, không chú trọng đến việc luyện viết ở nhà, không được quan tâm chữ viết ở lớp dưới. Nhất là ở lớp 1 học sinh sử dụng bút bi để viết, không sử dụng bút mực để viết nên chữ viết không đẹp, không đúng mẫu -Do cha mẹ thiếu quan tâm, không thường xuyên kiểm tra tập sách, có biện pháp nhắc nhở hay chỉ dẫn HS luyện viết. -Do GV ở các lớp dưới ít quan tâm, nhắc nhở, kiểm tra thường xuyên tập sách và có biện pháp để các em rèn luyện chữ viết. Trước những nguyên nhân chủ yếu trên, tôi bắt đầu đưa ra những biện pháp phù hợp nhằm chấn chỉnh và rèn luyện cho HS viết chữ. *Giải pháp thứ ba: Tạo môi trường học tập và rèn luyện chữ viết cho HS -Ngay từ đầu từ năm học, giáo viên cần xây dựng nề nếp lớp thật tốt, giáo dục học sinh về ích lợi và ý nghĩa của người viết đẹp qua các tâm gương viết chữ đẹp, hình thành cho học sinh các thói quen như : Đi học đúng giờ ; giữ sạch đẹp trường lớp, cảnh quan sư phạm; cho HS biết thực hiện và duy trì trang trí phòng lớp, sắp xếp phòng học, tập sách ngăn nắp gọn gàng ; hình thành cho HS tính cẩn thận trong việc ngồi viết, cách để tập sách, cách cầm bút đúng quy cách, cho học sinh xem các mẫu viết đẹp, cách trình bày sạch sẽ, đẹp mắt và yêu cầu từng học sinh phải cố gắng thực hiện viết chữ và cách trình bày như thế. -Thường xuyên hướng dẫn học sinh mẫu chữ viết, kích thước từng con chữ tính bằng ôli, nắm cấu tạo của chữ gồm những nét nào. -Trong từng tiết học, khi HS viết bài, làm bài giáo viên đều theo sát từng em, nhắc nhở, uốn nắn các em về chữ viết, cách ngồi viết, tập dần cho học sinh tính cẩn thận, kiên trì khi viết. -Đối với HS viết chữ xấu, khó xem giáo viên yêu cầu HS viết chậm lại. Lúc đàu, viết từng chữ cho rõ ràng, dần dần yêu cầu cao hơn là viết đều, đúng ôli với từng con chữ, trình sạch sẽ rồi mới đến viết đẹp. -Đối với những học sinh viết thiếu nét, thiếu dấu thanh giáo viên cần tập cho các em tính cẩn thận – Lúc đầu, sau mỗi bài viết cho học sinh đọc dò bài và sửa lại cho đúng nét và dấu thanh, sau đó cho HS vừa viết, vừa dò tập dần thói quen viết đúng đủ dấu và nét, cuối cùng mới rèn cho HS viết đẹp. -Ngoài giờ luyện viết mỗi tuần 1 tiết, giáo viên còn cho học sinh luyện viết trong các giờ học chính tả, luyện từ và câu, tập làm văn, làm toán và các môn học có viết bài khác. Mỗi khi HS viết bài giáo viên thường xuyên nhắc nhỡ về cách ngồi viết, cách đặt vở, cách cầm viết và viết, nhắc lại các qui tắc chữ viết. khi HS viết giáo viên đến từng bàn nhắc nhở, sửa chữa cho các em ; Đối với những em viết quá ẩu, chữ khó coi giáo viên viết trước 1 lần vào giấy nháp, sau đó góp ý, sửa chữa mới cho HS viết và trình bày vào vở. -Luyện viết ở lớp chỉ để hình thành cho HS thói quen, nắm cách viết, cách trình bày còn việc các em có viết đẹp hay không là do ý thức của từng em khi luyện viết ở nhà. Chính vì vậy, giáo viên cần cho học sinh luyện viết ở nhà 1 quyển tập riêng với bài hàng ngày, quyển tập luyện viết này giáo viên kiểm tra và góp ý hàng ngày vào những giờ rảnh (đầu giờ, cuối giờ và giờ chơi). Những em nào cố gắng rèn luyện sẽ được tuyên dương trước lớp còn ngược lại bị phê bình và phải viết lại bài đó vài lần khi nào viết đúng mẫu, rõ ràng, sạch mới thôi. -Ngoài những hình thức tập dần cho học sinh rèn luyện giáo viên nên tổ chức thi đua giữa các tổ về “Viết chữ đẹp”, “Chữ đẹp, nét ngoan”, “Xem tổ nào có nhiều bạn viết chữ nhất” nhằm khuyến khích động viên các em và các nhóm cùng nhắc nhở nhau viết chữ đẹp. Đương nhiên, phong trào đưa ra phải có khen thưởng, tuyên dương trước lớp, cả trường. *Biện pháp thứ tư : Vận dụng các hình thức trực quan và luyện tập trong dạy học tập viết a) Vận dụng các hình thức trực quan bằng các thiết bị, đồ dùng dạy học +Dùng máy chiếu hất phóng to mẫu chữ cái viết hoa, minh họa cấu tạo các nét chữ cho HS quan sát, nhận xét nhằm khắc sâu biểu tượng về chữ viết ; minh họa chữ viết ứng dụng hoặc các trường hợp nối nét cần chú ý HS khi viết ; giới thiệu những bài viết đẹp để HS học tập hoặc nêu những trường hợp viết sai phổ biến để HS rút kinh nghiệm và khắc phục +Sử dụng bìa chữ mẫu (Bộ chữ dạy tập viết do Trung tâm bản đồ và tranh ảnh giáo dục ,NXB giáo dục ấn hành ; hoặc bìa chữ do GV tự làm) đẻ hướng dẫn học sinh viết chữ cái hoa, viết ứng dụng (tương tự như dùng máy chiếu hất). -Trực quan qua sử dụng bảng lớp, bảng con. +Gv viết mẫu để minh họa, hướng dẫn HS nhận xét về hình dáng, quy trình viết một chữ cái hoa, quy trình viết chữ ghi tiếng ứng dụng, viết cụm từ ứng dụng (có minh họa trường hợp nối nét trên bảng con, nếu cần). +GV giới thiệu và biểu dương những chữ viết đúng, viết đẹp của HS trên bảng lớp, bảng con ; hoặc; hoặc hướng dẫn HS sửa lại nét chữ viết chưa đúng ngay trên bảng con, bảng lớp -Trực quan bằng cách giới thiệu những “vở sạch chữ đẹp” của HS ở năm học trước, của GV (hoặc những bút tích khác có giá trị phục vụ cho kĩ thuật viết chữ và trình bày ) nhằm kích thích hứng thú rèn luyện về chữ viết của HS. b) Vận dụng hình thức luyện tập trong dạy học tập viết Trong giờ tập viết, GV vận dụng biện pháp luyện tập đối với học sinh theo yêu cầu từ thấp đến cao, từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp, cụ thể như sau : -Hướng dẫn học sinh luyện các thao tác chuẩn bị viết chữ (dùng que chỉ “đồ” trên chữ mẫu ; viết bằng ngón tay vào khoảng không trước mặt ; tập viết nét khó trong chữ cái hoa, nếu cần) -Hướng dẫn HS viết trên bảng lớp, bảng con theo tiến trình dạy học: +Tập viết chữ cái hoa +Tập viết chữ ghi tiếng ứng dụng (có chữ cái hoa) +Luyện nối chữ ở trường hợp khó (nếu cần). -Hướng dẫn HS thực hành luyện tập trong vở bài tập viết 2 (viết chữ cái hoa, chữ ghi tiếng ứng dụng theo cỡ vừa và cỡ nhỏ, viết cụm từ ứng dụng theo cỡ nhỏ). Trong quá trình hướng dẫn học sinh luyện tập viết chữ, GV cần hết sức lưu ý rèn các thói quen cho HS : ngồi viết đúng tư thế, để vở đúng quy cách và biết xê dịch vở khi viết, cầm bút (viết) đúng quy định. Ngoài các giờ tập viết, GV còn phải luôn nhắc nhở HS viết chữ và trình bày rõ ràng, sạch sẽ ở các môn ( phân môn) khác nhằm nâng cao chất lượng chữ viết và hình thành ở HS những phẩm chất tốt. *Biện pháp thứ tư : kết hợp tốt với gia đình trong việc dạy HS viết chữ -Trong quá trình giảng dạy, giáo viên thường xuyên liên hệ với phụ huynh nhằm thông báo tình hình học tập của các em, nêu lên cho phụ huynh biết hoạt động của nhà trường, các hoạt động của lớp và hướng rèn luyện học sinh của GV chủ nhiệm. -Từ đầu năm, khi họp phụ huynh, giáo viên đã đưa ra một số biện pháp về rèn luyện chữ viết cho HS và yêu cầu phụ huynh học sinh thường xuyên nhắc nhở, kiểm tra tập vở và kiểm tra học sinh rèn luyện chữ viết ở nhà. Đề nghị mỗi phụ huynh cần tạo một góc học tập tốt để các em luyện viết, có nơi để tập vở ngăn nắp gọn gàng, cho các em góc học ở nhà thoáng mát, có chỗ học sinh ngồi viết ngay ngắn, sinh hoạt với phụ huynh các tư thế ngồi viết, cách ngồi viết, để phụ huynh nắm nhằm dễ dàng việc kiểm tra, nhắc nhở học sinh luyện viết. -Những trường hợp học sinh lười luyện viết ở nhà, chữ viết không tiến bộ GV gởi thư hoặc trực tiếp đến nhà trao đổi với phụ huynh để cùng tìm biện pháp rèn luyện cho HS. VI/.Những nguyên tắc và phương pháp dạy tập viết 1. Những nguyên tắc định hướng việc dạy học tập viết ở Tiểu học a) Nguyên tắc đảm bảo sự phối hợp đồng bộ của các bộ phận cơ thể tham gia vào việc viết chữ Quá trình tập viết có liên quan đén nhiều bộ phận trong cơ thể của nhiều học sinh. Tư thế ngồi viết có liên hệ đến cột sống, phổ, lưng. Cách cầm bútcó liên quan đến cả ngón tay. Hình dáng kích thước chữ trong tập viết có quan hệ đến mắt các em. Việc tập viết không đảm bảo đúng các quy định được xay dựng trên cơ sở khoa học sẽ đem lại nhiều di hại suốt đời cho học sinh : mắt cận thị do ngồi ở nơi thiếu ánh sáng, hoặc cúi đầu sát vở, cột sống bị vẹo, lưng gù, phổi bị ảnh hưởng do ngồi không đúng tư thế. Vì vậy, khi hướng dẫn HS tập viết cần coi việc phối hợp đồng bộ các bộ phận cơ thể là đặc thù. “Muốn viết, các en phải nhìn lại mình để đặc vở sao cho đúng cách. Khi học viết một chữ cái em phải nhớ hình dáng của nó thể hiện trên dòng kẻ và nhớ di chuyển ngòi bút. Em đó cần nhớ tư thế ngồi nào cho hợp lí và đừng dí sát ắt vào vở. một đứa trẻ sẽ không quen thuộc mội việc nêu trên vì những hoạt động đó đòi hỏi phải nỗ lực về ý chí. Khi một học sinh lớp 1 viết,các bộ phận trong cơ thể nó đều căn thẳng, đặc biệt là các cơ bàn tay và ngón tay. Điều này phải dẫn đén việc phẩi thực hiện các bài tập thể dục đặc biệt trong giờ học”. Sự phân tích này cho biết kĩ năng của học sinh chỉ thực sự có được khi có sự phối hợp đồng bộ của các bộ phận cơ thể. Việc đánh giá sản phẩm chữ viết cần phải kết hợp với việc theo giỏi quá trình viết của các em. Chu trình viết chữ của trẻ là qú trình vận động của việc viết bằng toàn thân đến việc viết bằng ba ngón tay mật cáhc thoải mái chủ động. b) Nguyên tắc coi việc dạy tập viết là dạy hình thành một kĩ năng Việc rèn luyện kĩ năng đồi hỏi người học phải tri giác chính xác sản phẩm, nắm vững các thao tác kĩ thuật và kiên trì lặp đi lặp lại các thao tác đoa. Chữ viết Tiếng việc là hệ thống chữ cái La tinh ghi âm, mỗi nhóm chữ cái có những đặc điểm riêng nê quy trình thực hiện các thao tác ở từng nhóm cũng không giống nhau. Do đó, khi rèn kĩ năng viết chữ, HS phải nắm được hình dáng, đặc điểm từng chữ cái, các thao tác viết các nhóm chữ cái và từng chữ (thao tác viết nhóm chữ nét cong khác thao tác viết nhóm chữ nét khuyết) và phải luyện tập liên tục nhiều lần trên vở tập viết. Trong rèn luyện kĩ năng viết chữ, HS nhỏ tuổi gặp các khó khăn sau : -Tri giác của các em thiên về nhận biết tổng quát đối tượng. trong khi đó, để viết được chữ, người viết phải tri giác cụ thể, chi tiết từng nét, từng động tác kĩ thuật tỉ mĩ. Do vậy, khi tiếp thu kĩ thuật viết chữ, HS không tránh khỏi lúng túng khó khăn. -Học sinh tiểu học thường hiếu động, thiếu kiên trì, khó thực hiện các động tác thực hiện khéo léo, cẩn thận. Để giúp HS khắc phục những nhược điểm trên, GV phải có đức tính kiên trì. Sự nhiệt tâm, chu đáo của GV là một trong những đảm bảo sự thành công của giờ dạy tập viết. Kĩ năng viết chữ được rèn luyện ở hai mức độ : -Tập viết các chữ cái : viết đúng hình dáng, cấu tạo, quy trình viét. -Tập viết ứng dụng : hướng dẫn HS viết liền mạch các chữ cái. Viết dấu phụ, dấu thanh trên hoặc dưới các chữ cái. Học sinh có kĩ năng viết chữ chỉ thực sự khi sản phẩm viết của các e đúng ẫu, rõ ràng, đúng tốc độ quy định về tư thế ngòi viết, cách cầ bút, đẻ vở, cách trình bày trên bản con, trên vở tập viết. Để hình thành kĩ năng viết chữ cho học sinh, việc dạy tập viết phải trải qua hai giai đoạn : -Giai đoạn 1 : Giai đọan này được hình thành và xây dựng biểu tượng về chữ viết, giúp các e hiểu và ghi nhớ được hình dáng, kích thước, quy trình viết từng chữ cái. Các hiểu biết này giúp HS viết chữ một cách tự giác. Nhờ vậy kết quả đạt được nhanh và chắc hơn. -Giai đoạn 2 : Đây là giai đoạn củng cố, hoàn thiện biểu tượng về chữ viết thông qua các hình thức luyện tập viết chữ. Giai đoạn này hướng dẫn các em luyện viết chữ cái, liên kết các chữ cái đẻ luyện viết từ, cao hơn là viết câu ứng dụng. Trong việc dạy học sinh hình thành kĩ năng viết chữ, cần phải tính đến các yếu tố cảm xúc – tâm lí chi phối việc viết chữ. Mỗi chữ viết đối với các em là một phát minh. Quá trình lĩnh hội và thể hiện chữ viết ở các em diễn ra rátnhanh nếu trẻ viết với tâm lí vui vẻ, phấn chấn. các em rất vui khi được tiếp xúc với thế giới con chữ và viết được ột chữ - Goóc –ki gọi là “yếu tố bùng nổ tâ lí”, đồng thời cũng là cảm xúc mãnh liệt nhưng cũng rất hồn nhiên sinh động khi trẻ học viết chữ. 2. Phương pháp dạy tập viết a) Phương pháp trực quan Giáo viên khắc sâu cho các em về con chữ bằng nhiều con đường : kết hợp mắt nhìn, tai nghe, tay luyện tập. Điều này giúp các em chủ động phân tích hình dáng, kích thước và cấu tạo mẫu chữ, tìm sự giống nhau và khác nhau của chữ cái đang học với chữ cái đã học trước đó trong cùng một nhóm bằng thao tác so sánh tương đồng. Mẫu chữ là hình thức trực quan ở tất cả các bài tập viết. Đây là điều kiện đầu tiên để các em viết đúng. Có các hình thức mẫu chữ : chữ mẫu in sẵn, chữ phóng to trên bảng, chữ mẫu trong vở tập viết, hộp chữ mẫu Tiêu chuẩn cơ bản của chữ mẫu là phải đúng chữ quy định, rõ ràng và đẹp. Chữ mẫu có tác dụng : -Chữ mẫu phóng to trên bảng sẽ giúp học sinh dễ quan sát, từ đó tạo điều kiện để các em phân tích hình dáng, kích thước và các nét cơ bản cấu tạo chữ cái cần viết trong bài học. -Chữ nẫu GV viết tiếp trên bảng giúp cho HS nắm được thứ tự viết các nét của từng chữ cái, cách nối các chữ cái trong cùng ột chx nhằm đả bảo yêu cầu viết liền mạch, viết nhanh. -Chữ mẫu trong hộp chữ các em kết hợp mắt nhìn, tay xếp để phối hợp các thao tác viết chữ một cách đồng bộ. Chữ viêt của GV khi chữa bài, chấm bài cũng được học sinh quan sát như một loại chữ mẫu, vì thế, GV cần có ý thức viết chữ đẹp, đúng mẫu, rõ ràng. Ngoài ra, để việc dạy chữ viết không đơn điệu, GV cần coi trọng việc xử lí quan hệ giữa â và chữ, tức là giữa đọc và viết. Do đó, trong tiến trình dạy tập viết, nhất là tập viết những âm mà địa phương hay nhầm lẫn, GV cần đọc mẫu.Việc viết đúng sẽ củng cố việc dạy đọc đúng, ngược lại đọc đúng đóng vai trò rất quan trọng để đảm bảo viết đúng b) Phương pháp đàm thoại gợi mở Phương pháp này được sử dụng chủ yếu ở giai đoạn đầu của tiết học. GV dẫn dắt học sinh tiếp xúc với các chữ sẽ học bằng một hệ thống câu hỏi, từ việc hỏi về các nét cấu tạo chữ cái, độ cao, kích thước chữ cái đến việc so sánh các nét giống nhau và nét khác biệt giữa các chữ cái đã học giữa các chữ cái đữ phân tích. Chẳng hạn, khi dạy chữ cái A, GV có thể đặt câu hỏi “chữ A cấu tạo bằng những nét nào ? (2 nét móc ngược và 1 nét lượn ngang). Chữ cao mấy ô ? Độ rộng của chữ bao nhiêu (trong bảng chữ mẫu) ? Nét nào viết trước, nét nào viết sau” ? với những câu hỏi khó, Gv cần định hướng câu trả lời cho các em. Vai trò của người Gv ở đây là người tổ chức hướng dẫn học sinh phân tích cấu tạo chữ cái, chuẩn bị cho giai đọan luyện tập viết chữ tiếp theo. c) Phương pháp luyện tập Giáo viên cần chú ý đến các giai đoạn của quá trình tập viết chữ. Việc hướng dẫn học sinh luyện tập thực hành phải tiến hành từ thấp đến cao giúp học sinh dễ tiếp thu. Lúc đầu là việc viết đúng hình dáng, cấu tạo, kích thước các cỡ chữ, sau đó là viết đúng dòng và đúng tốc độ quy định. Việc rèn luyện kĩ năng viết chữ phải dược tiến hành đồng bộ ở lớp cũng như ở nhà, ở phân ôn tập viết cũng n
Tài liệu đính kèm: