I.1. Lí do chọn đề tài.
Chúng ta đều biết:"Nhân cách của con người chỉ có thể được hình thành thông qua hoạt động và giao tiếp". Để xã hội tồn tại và phát triển, để giao tiếp được thuận tiện, mỗi dân tộc, mỗi quốc gia đều có ngôn ngữ riêng. Trong cuộc sống hàng ngày, để giao tiếp ngoài ngôn ngữ riêng. Tiếng việt là ngôn ngữ thống nhất trên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam. Trong cuộc sống hàng ngày, để giao tiếp ngoài ngôn ngữ nói còn có ngôn ngữ viết. Ngôn ngữ biết đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong giao tiếp của các quốc gia nói chung cũng như Việt Nam nói riêng. Yêu cầu đầu tiên, đặc biệt quan trọng của ngôn ngữ viết là phải viết đúng chính tả. Chính tả có thống nhất thì việc giao tiếp bằng ngôn ngữ viết mới không bị cản trở giữa các địa phương trong cả nước, cũng như giữa các thế hệ đời trước và đời sau.
Vì vậy, việc dạy đúng chính tả phải được coi trọng ngay từ buổi đầu đối với học sinh tiểu học. Phân môn chính tả ở tiểu học có nhiệm vụ chủ yếu rèn luyện cho học sinh nắm các quy tắc và thói quen viết đúng với chuẩn chính tả Tiếng Việt. Cùng với các phân môn khác, chính tả giúp cho học sinh chiếm lĩnh Việt văn hoá - Công cụ để giao tiếp, tư duy. Ngay từ bậc tiểu học, trẻ cần phải được môn học chính tả một cách khoa học, cẩn thận để có sử dụng công cụ này suốt những năm tháng trong thời kỳ học tập ở nhà trường cũng như suốt cuộc
iệc thuận tiện trong tiếp thu trí thức qua các môn học ở Tiểu học đến việc xây dựng các văn bản trong quá trình giao tiếp trong học tập. Chương trình Tiếng Việt ở bậc Tiểu học bao gồm nhiều phân môn. Phân môn chính tả có nhiệm vụ chủ yếu rèn cho học sinh nắm các quy tắc và các thói quen viết đúng với chuẩn chính tả Tiếng Việt. Cùng với các phân môn khác, chính tả giúp cho học sinh chiếm lĩnh văn hoá, là công cụ để giao tiếp, tư duy để học tập, trau dồi kiến thức và nhân cách làm người. Ngay từ đầu ở bậc Tiểu học trẻ cần phải được học môn chính tả một cách khoa học, cẩn thận để có thể sử dụng công cụ này suốt những năm tháng trong thời kỳ học tập ở nhà trường cũng như trong suốt cả cuộc đời. Chính tả có tầm quan trọng như vậy nên môn học này cần phải được coi trọng ở các trường Tiểu học. Nhưng trên thực tế hiện tượng học sinh viết sai chính tả là khá phổ biến. Cụ thể là trên địa bàn trường tiểu học nơi tôi đang công tác, hiện tượng học sinh viết sai chính tả, đặc biệt là sai phụ âm "l - n" chiếm một tỷ lệ khá lớn. Vấn đề này có nhiều nguyên nhân, nhưng một trong những nguyên nhân cơ bản và quan trọng nhất là do học sinh ở đây có thói quen phát âm sai, lẫn lộn giữa các âm "l - n, s - x ; ch - tr...." dẫn đến viết sai. Trước tình hình như vậy, việc nhìn nhận lại thực trạng về việc dạy chính tả để từ đó tìm ra một số giải pháp hữu hiệu nhằm nâng cao chất lượng học chính tả cho học sinh vùng phương ngữ là hết sức cần thiết. Đặc biệt là việc cải tiến cách dạy chính tả sao cho khoa học, cho hiệu quả hơn. Coi trọng phương pháp dạy chính tả có ý thức để việc viết đúng chính tả trở thành kỹ năng, kỹ xảo cho học sinh ngay từ lớp đầu cấp. Bên cạnh đó, về phương pháp, một số giáo viên chưa chú ý áp dụng phương pháp hợp lý khi dạy chính tả. Từ thực trạng trên, việc nghiên cứu tìm ra một số những biện pháp hữu hiệu để giải quyết tình trạng trên là hết sức cần thiết. Bản thân là một số giáo viên dạy học trên vùng phương ngữ, tôi mạnh dạn tiến hành nghiên cứu chuyên đề: Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng phân môn chính tả cho học sinh lớp 5. I.2.Mục đích nghiên cứu. Việc dạy môn chính tả ở trường tiểu học không chỉ đơn thuần là rèn cho học sinh viết đẹp, viết đúng mà còn nâng cao sự hiểu biết về chương trình, tích luỹ vốn từ ngữ. Từ đó học sinh biết sử dụng những vốn từ ngữ đó vào thực tế, tạo điều kiện để học tốt các môn học khác. Học sinh học tốt môn chính tả sẽ được nâng cao về mặt nhận thức , hiểu biết. Một phần quan trọng đó là góp phần đổi mới phương pháp dạy và học. I.3.Thời gian -địa điểm. -Thời gian: Đăng kí đề tài: tháng 9 năm 2008 Hoàn thành đề tài:20/5/2009 - Địa điểm: Trường tiểu học Việt Dân. 1.4.Đóng góp mới về mặt lí luận, về mặt thực tiễn. Nghiên cứu lí luận làm cơ sở pháp luận của vấn đề đổi mới phương pháp nhằm nâng cao chất lượng phân môn chính tả cho học sinh lớp 5. Tìm hiểu đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi học sinh lớp 5 để chọn phương pháp dạy cho phù hợp. Trẻ em ở lứa tuổi Tiểu học nhận thức hiện thực khách quan mang đậm màu sắc cảm tính. Các giác quan như tai, mắt được sử dụng nhiều trong nhận thức sự vật, cho nên trực quan cụ thể là những yếu tố đặc biệt quan trọng góp phần tạo nên nhận thức và tư duy của học sinh Tiểu học. “Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng” câu nói nổi tiếng của Lê- nin khi người giải thích quy luật nhận thức hiện đại, đặc biệt được thể hiện ở học sinh Tiểu học. Khi dạy chính tả cho học sinh Tiểu học cần vận dụng triệt để đặc điểm, nhận thức của trẻ em ở lứa tuổi này. VD: Nghe và quan sát cách phát âm đúng để phát âm đúng. Quan sát cách viết đúng để viết đúng , dần dần học sinh sẽ tích luỹ được những kinh nghiệm, làm giàu thêm tri thức chính tả cho bản thân. Kết quả là các em nhận thức được những vốn kinh nghiệm một cách có ý thức, tạo nên kĩ năng kĩ xảo cho các em. Từ đó giúp các em dề dàng trong việc tiếp thu các tri thức của các môn học, nhất là trong phân môn Tập làm văn. Nghiên cứu kỹ về phân môn chính tả .Tìm hiểu thực tế việc dạy và học môn chính tả lớp 5 của trường Tiểu học Việt Dân trong những năm qua để tìm ra ưu nhược điểm cơ bản về phương pháp dạy và học của thầy và trò. Đề xuất những biện pháp đổi mới về cách dạy nhằm nâng cao phân môn chính tả cho học sinh lớp 5 , và tiến hành dạy thực nghiệm nhằm khẳng định biện pháp để có thể đưa vào áp dụng đại trà. Do vậy hai nhiệm vụ chủ yếu của việc đề cao nguyên tắc dạy học chính tả có ý thức là: giải quyết những vấn đề tồn tại của chữ quốc ngữ. Tôn trọng nguyên tắc dạy chính tả theo khu vực, phải chú ý cách phát âm của địa phương. II. PHẦN NỘI DUNG. II.1. CHƯƠNGI:TỔNG QUAN II.1.1 Lập đề cương nghiên cứu. Nghiên cứu lí luận, thực tế và xây dựng đề cương nghiên cứu ở học kì I năm học 2008-2009. Tìm hiểu cơ sở pháp luận và tìm hiểu thực tế ( thực trạng - đề xuất cải tiến). Tổ chức dạy thực nghiệm và hoàn thành vào cuối học kì II năm học 2008-2009. II.1.2 Viết đề tài. -Từ tháng 3 đến tháng 4 hoàn thành. II.2 . CHƯƠNG II: NỘI DUNG VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU II.2.1. Cơ sở ngôn ngữ học đại cương Các lĩnh vực ngôn ngữ như ngữ nghĩa học, ngữ pháp học, phong cách học đều có những đóng góp về mặt lý luận để các nhà khoa học giáo dục biên soạn chương trình học tiếng việt cho từng cấp học. Nói riêng về phân môn chính tả ở bậc tiểu học, có thể nói các lĩnh vực của ngôn ngữ học đều có sự đóng góp hình thành cơ sở khoa học của phân môn chính tả. Chẳng hạn như ngữ pháp văn bản giúp cho việc xác định rõ nghĩa của từ trong văn bản, giúp cho học sinh xác định rõ các âm tiết của từ đó mà viết đúng chính tả. Riêng lĩnh vực ngữ âm học cơ sở lý luận gắn bó mật thiết với vấn đề chính tả. Phân môn Chính tả lớp 5 chủ yếu tập trung rèn luyện kỹ năng viết chính tả chính xác cho học sinh. Thông qua làm việc các bài tập chính tả, học sinh lớp 5 được các quy tắc viết của chữ quốc ngữ, nắm được cách viết đúng các từ có âm đầu, vần và thanh điệu học sinh địa phương hay mắc lỗi do ảnh hưởng của cách phát âm. Học sinh có viết đúng chính tả thì mới viết văn bản đúng chuẩn chính tả và do đó các em mới có thể giao tiếp tốt bằng văn bản. Do vậy mục tiêu của phân môn Chính tả lớp 5 là: Trang bị một số kiến thức về quy tắc chính tả Tiếng Việt; rèn luyện kỹ năng nghe, kỹ năng viết đúng chính tả đoạn văn, bài văn; phát triển ý thức viết đúng chính tả, thái độ cẩn thận và yêu cái đẹp trong giao tiếp bằng chữ tiếng Việt. II.2.2. Cơ sở dạy ngữ âm học II.2.2.1. Tìm hiểu về mối quan hệ giữa âm - chữ và nghĩa Chữ viết của Tiếng Việt là chữ viết ghi âm nên nguyên tắc chính tả chủ yếu của Tiếng Việt là nguyên tắc ngữ âm học, nghĩa là mỗi âm vị được thể hiện bằng một tổ hợp chữ cái, mỗi âm tiết, mỗi từ có một cách viết nhất định. Do đó việc viết đúng phải dựa trên đọc đúng, đọc đúng là cơ sử viết đúng. Để phát huy một cách có ý thức. đặc biệt là những vùng phương ngữ, việc dạy chính tả phải theo sát nguyên tắc này. Nghĩa là phải tôn trọng việc phát âm, lấy phát âm để điều chỉnh chữ viết. Ví dụ: Âm vị /t/ được biểu thị bằng chữ cái "t" Âm vị /b/ được biểu thị bằng chữ cái"b" Ngữ âm học thực hành chủ yếu tập trung vào rèn luyện phát âm đúng. Phát âm đúng gắn liền với viết đúng (chính âm gắn liền với chính tả). Do đó cơ chế của việc viết đúng phải dựa trên đọc đúng, đọc đúng là cơ sở viết đúng. Để phát huy một cách có ý thức, đặc biệt là vùng phương ngữ việc dạy chính tả cần phải theo sát nguyên tắc này. Nghĩa là phải tôn trọng việc phát âm, lấy phát âm để điều chỉnh chữ viết. - Mạch kiến thức về quy tắc chính tả Hệ thống hoá những hiểu biết về cách viết đúng các âm đầu, vần, thanh điệu của các từ thuộc vốn từ đã học theo chủ điểm. Hệ thống hoá về quy tắc viết tên người, tên địa lý Việt Nam và nước ngoài. - Mạch kỹ năng viết chính tả: nghe - viết, nhớ - viết một đoạn văn hoặc đoạn thơ, trình bày bài viết theo quy định. + Viết đúng các từ ngữ dễ sai lẫn trong các bài chính tả nghe - viết, nhớ - viết, cụ thể là: - Các từ có âm đầu hoặc âm chính có nhiều cách viết - Các từ có vần khó xuất hiện trong các bài chính tả. - Các từ mà phát âm của tiếng địa phương lệch so với chuẩn. + Các tên người, tên địa lý Việt Nam và nước ngoài Trong những nội dung trên có phần nội dung bắt buộc dạy cho tất cả học sinh ở các vùng miền, trong cả nước, có những nội dung cho phép các trường, lớp ở từng địa phương được lựa chọn để dạy cho phù hợp với đặc điểm của học sinh địa phương. Phần nội dung tự chọn là phần viết đúng các từ mà phát âm của tiếng địa phương lệch so với chuẩn trong mỗi bài học. Trong trường hợp các bài tập tự chọn trong sách giáo khoa không phù hợp với đặc điểm phát âm của tiếng địa phương nơi có trường lớp mình dạy, giáo viên có thể soạn bài tập thay thế cho bài tập ở sách giáo khoa sao cho nội dung bài thay thế phù hợp với đặc điểm phát âm của tiếng địa phương dẫn đến lỗi chính tả học sinh lớp mình, trường mình thường mắc. II.2.2.2 Những bất hợp lý của chữ quốc ngữ Ở tiếng Việt nguyên tắc cơ bản là nguyên tắc ngữ âm học. Ngoài ra chính tả tiếng Việt còn được xây dựng trên một số nguyên tắc nữa như nguyên tắc truyền thống lịch sử, nguyên tắc khu biệt... Những nguyên tắc này không đồng nhất với nguyên tắc ngữ âm học, do vậy chính tả tiếng Việt còn có những hợp lý. Cụ thể trong tiếng Việt có hiện tượng. Cách phát âm ở những vùng miền khác nhau (phương ngữ). Bên cạnh đó lại có trường hợp từ mang hai biến thể phát âm, khó có thể nói biến âm nào là chuẩn. Ví dụ: Chòng chành - tròng trành Nhún nhảy - Dún dẩy Hoặc có khi có một cách phát âm nhưng lại có hai cách viết Ví dụ: i: trong lý luận /i/ y: trong Lý Thường Kiệt Bản thân hệ thống âm vị tiếng Việt còn có một số âm vị không ghi thống nhất một âm có thể ghi bằng nhiều con chữ. Ví dụ: c( con cuốc) /i/ k:(cái kim) q: (Tổ quốc) Trước những bất hợp lý trên, việc xác định trọng điểm chính tả cần cho dạy học sinh vùng phương ngữ, một mặt phải coi tọng hệ thống âm chuẩn toàn dân, mặt khác phải coi trọng những biển thể phát âm địa phương, đồng thời phải dùng nghĩa để sử dụng dựa vào các văn cảnh. II.2.2.3 Vấn đề chuẩn chính tả Ngôn ngữ văn hoá không thể không có chính tả thống nhất, mà muốn thống nhất được chính tả thì phải có chuẩn chính tả. Chuẩn chính tả tiếng Việt là quá trình tiểu chuẩn hoá cách viết của ngôn ngữ Tiếng Việt và phải được mọi người tuân theo. Chuẩn chính tả dựa vào ba căn cứ cơ bản sau: - Chuẩn chính tả có tính chất bắt buộc gần như tuyệt đối. - Chuẩn chính tả có tính bền vững tương đối - Chuẩn chính tả có tính lựa chọn, tính phát triển Ngoài ra chuẩn chính tả không phải là bất biến. II.2.3. Cơ sở thực tiễn. II.2.3.1. Thực tế trình độ chính tả của học sinh tiểu học . Qua thực tế giảng dạy và khảo sát vở tập làm văn, vở chính tả của học sinh lớp 5 trường tiểu học Việt Dân , tôi thấy các em mắc khá nhiều lỗi chính tả. Thống kê lỗi chính tả của các em tôi thấy có ba loại lỗi cơ bản sau: - Lỗi chính tả do không nắm vững chính tự: lỗi này thường gặp khi viết các phụ âm đầu: d - gi, ch - tr,..... - Lỗi do không nắm vững trình tự âm tiết của tiếng việt. - Lỗi chính tả do viết theo lối phát âm của địa phương hoặc do không nắm vững chính âm. Đây là lỗi cơ bản nhất mà qua khảo sát tôi nhận thấy. Cụ thể là âm "l - n" học sinh thường xuyên nhầm lẫn và viết sai chính tả trong bài viết của mình. Tìm hiểu nguyên nhân của hiện tượng sai trên, tôi nhận thấy chủ yếu là học sinh phát âm sai - thường các em còn phát âm lẫn lộn giữa âm "l - n" nên không phân biệt được khi viết. Để sửa loại lỗi này giáo viên đã cố gắng dạy cho học sinh nắm vững chính âm trong tiếng việt. Muốn viết đúng chính tả thì phải phát âm đúng. Do vậy chúng ta cần phải chú trọng đến việc phát âm chuẩn cho học sinh trong giờ Tập đọc.Mặt khác mỗi giáo viên phải là một chuẩn mực sống động để học sinh bắt chước và noi theo. Ngoài ra việc đổi mới các phương pháp dạy học và giúp học sinh nắm bắt các mẹo luật chính tả cũng hết sức cần thiết để học sinh viết đúng. Trong phạm vi nghiên cứu của chuyên đề, tôi xin được thông kê số liệu học sinh mắc lỗi chính tả của khối 5 đầu năm học như sau: STT Lớp Tổng số Các lỗi chính tả thường mắc l - n d/gi/r/ch;tr/s/x... Cấu trúc âm tiết 1 5E1 28 10 em 3 em 1 em 2 5E2 28 12 em 4 em 2 em II.2.3.2. Thực tế về giảng dạy chính tả của giáo viên tiểu học. Thực tế về chất lượng dạy chính tả của giáo viên Tiểu học trước hết phải nói đến trình độ đã được đào tạo của giáo viên không đồng đều và việc tổ chức dạy và học môn chính tả chưa được khoa học. Hai là trong các nhà trường sư phạm việc dạy phương pháp môn Tiếng Việt nói chung, phương pháp dạy chính tả nói riêng còn coi nhẹ.. Để khắc phục tình trạng này, việc đối mới phương pháp dạy học phân môn Chính tả là hết sức cần thiết, phải giúp học sinh nắm được các quy tắc chính tả,. các mẹo luật chính tả phù hợp với trình độ tiếp thu của các em, hình thành kỹ năng, kỹ xảo chính tả, bỏ thói quen phát âm sai dẫn đến viết sai. Do đó nhiều giáo viên ra trường còn gặp nhiều lúng túng về nội dung và phương pháp và cách rèn kỹ năng cho học sinh. Những tồn tại trên dẫn đến chất lượng học chính tả của học sinh còn nhiều hạn chế. Đặc biệt với những vùng phương ngữ thì đây là một thiệt thòi rất lớn vì các em không có điều kiện để đạt tới một chuẩn mực chính tả như mong muốn. Để khắc phục tình trạng này thì trước hết cần phải chuẩn hoá giáo viên để giáo viên có đủ kinh nghiệm, trình độ giúp học sinh nắm được quy tắc chính tả, hình thành kỹ năng, kỹ xảo chính tả, bỏ được thói quen phát âm sai, viết sai. II.2.3.3. Chương trình sách giáo khoa . Trước hết phải khẳng định rằng môn Tiếng Việt ở Tiểu học SGK đã xác định được những trọng điểm chính tả cơ bản cần dạy cho học sinh. Các bài tập trong SGK cũng khá đa dạng, phù hợp với từng khối lớp và cấu trúc đi từ dễ đến khó. Tuy nhiên về hạn chế SGK còn đánh đồng nội dung dạy học trong cả nước cho nên có thể nói nội dung dạy chính tả trong SGK Tiếng Việt vừa thừa lại vừa thiếu do chưa sử lý được việc dạy chính tả theo khu vực. Thừa ở các em vừa phải luyện tập ở cả những nội dung mà các em đã biết, không mấy khi sai sót. Thiếu ở chỗ không đủ thời gian để đi sâu hơn, luyện tập nhiều hơn để tránh những lỗi mà các em thường mắc phải. Nội dung chính tả được trình bày trong SGK Tiểu học còn mang tính ngẫu nhiên, chủ quan, áp đặt, không được xây dựng dựa trên sự điều tra khảo sát tình hình chính tả ở từng vùng, từng khu vực. Chính tả trong SGK chưa thống nhất, điều này cũng gây không ít khó khăn cho việc dạy học chính tả ở Tiểu học, đặc biệt ở những vùng phương ngữ. II.3:CHƯƠNG 3 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU -KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU. II.3.1. Phương pháp rèn luyện theo mẫu: Thực hiện phương pháp này, giáo viên cần đọc mẫu các từ mà học sinh dễ mắc lỗi, học sinh nghe và phát âm lại cho đúng các từ đó. Tiếp theo giáo viên yêu cầu học sinh phân tích tiếng mắc lối thành các phần âm đầu, vần và thanh điệu, từ đó học sinh nhớ cách ghi các bộ phận của tiếng để viết đúng. trước khi viết bài chính tả, học sinh viết từ này ra bảng con. Một biện pháp cần thực hiện để dạy học chính tả theo mẫu là tổ chức cho các nhóm học sinh lập sổ tay chính tả của nhóm. Giáo viên hướng dẫn học sinh ghi các lỗi chính tả mà học sinh trong nhóm mắc trong các bài viết và cách viết đúng các từ đó. Sau khi ghi các từ mắc lỗi và cách sửa, học sinh cần ghi thêm các từ em biết có các âm đầu, vần, thanh, các từ là tên riêng tương tự như các từ mà em đã mắc lỗi để giúp các em biết cách viết đúng nhiều từ. II.3.2. Phương pháp thực hành giao tiếp. Thực hành giao tiếp trong dạy học chính tả là chủ yếu thực hành giao tiếp bằng chữ viết ghi lại các đơn vị có nghĩa. Muốn cho học sinh học tập theo phương pháp này, giáo viên cần cho học sinh biết nghĩa của các đơn vị giao tiếp (từ, câu), chuẩn chữ viết của các đơn vị này, sau khi hoàn thành bài viết, cần cho học sinh kiểm tra lại để sửa lỗi sao cho các đơn vị giao tiếp trong bài đều đúng với chuẩn chính tả. Thực hiện phương pháp này, giáo viên cần cho học sinh đọc toàn bộ đoạn văn các em sẽ viết, hiểu nội dung đoạn văn, viết trước một số từ học sinh dễ viết sai. Sau đó giáo viên đọc cho các em viết hoặc cho các em nhớ từng câu để viết lại. Sau khi học sinh viết xong cả đoạn giáo viên cho các em tự soát lỗi của mình rồi sau đó đổi bài cho bạn và tự sửa lỗi. Khi giáoviên chấm bái, cần chỉ ra những lỗi trong bài chưa được sửa và chỉ ra cách sửa. II.3.3. Phương pháp sử dụng trò chơi học tập: Thực hiện phương pháp này, giáo viên cần xác định mục đích của trò chơi là nhằm củng cố cách viết đúng âm, vần, thanh điệu nào. Sau đó, giáo viên cần lựa chọn trọ chơi phù hợp với mục đích. Trò chơi chính tả cần có nội dung bám sát chương trình chính tả lớp 5. Nên có những trò chơi giúp học sinh nhớ cách viết âm đầu, vần, thanh điệu của một số từ học sinh viết sai ảnh hưởngcủa phát âm địa phương, một số trò chơi giúp học sinh phát hiện và sửa lỗi chính tả trong bài viết. Khi tổ chức chơi, giáo viên cần nêu rõ luận chơi, cách tiến hành luật chơi để tất cả cho học sinh đều biết cách chơi. Giáo viên nên lựa chọn các trò chơi có luật đơn giản, có thể dùng để dạy học nhiều hiện tượng chính tả, dễ kiếm vật liệu để chuẩn bị. II.3.4. Quy trình dạy chính tả lớp 5 A - Kiểm tra bài cũ (2 - 3') B - Dạy bài mới 1. Giới thiệu bài (1') 2. Hướng dẫn chính tả (8 - 10') - Giáo viên đọc mẫu - Tập viết chữ ghi khó hoặc dễ lẫn (Đây là bước rất quan trọng giúp học sinh không mắc lỗi chính tả, giáo viên cần lưu ý). 3. Học sinh viết bài (13 - 15') 4. Hướng dẫn chấm, chữa (4 - 5') (Đây cũng là bước quan trọng giúp học sinh tìm ra lỗi sai của mình để học sinh không mắc vào lỗi sai đó nữa). 5. Hướng dẫn bài tập chính tả (6 - 8') Đây là bước giáo viên cần lưu ý giúp học sinh rèn luyện kỹ năng chính tả. C. Củng cố - Dặn dò (1 - 2') II.3.5. Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng phân môn Chính tả cho học sinh lớp 5. - Thực hiện soạn bài kế hoạch bài học dạy chính tả một cách nghiêm túc, chu đáo. Soạn bài dạy chính tả là công việc của từng giáo viên. Bản chất của hoạt động soạn bài tập là một kế hoạch thực hiện bài học đảm bảo tính khả thi với từng lớp học do từng giáo viên phụ trách. Giáo viên xác định mục tiêu của bài về các phương diện kiến thức, kỹ năng, thái độ. Giáo viên xác định rõ mục tiêu của bài về các phương diện kiến thức, kỹ năng, thái độ. Giáo viên cần chỉ ra các đồ dùng dạy học mình tự chuẩn bị hoặc học sinh chuẩn bị ngoài những đồ dùng do sách giáo viên gợi ý (đồ dùng dạy học bao gồm cả những phiếu học tập, các đồ dùng để tổ chức trò chơi, tổ chức các cuộc thi cho học sinh). Giáo viên cần chỉ rõ các hoạt động dạy học cụ thể sẽ thực hiện trong giờ học, cụ thể là từng hoạt động học sinh làm gì, kết quả cần đạt ra sao, cần củng cố cho học sinh những kiến thức và kỹ năng nào? - Người giáo viên phải đặt phân môn Chính tả nằm trong mối quan hệ giữa các phân môn khác của tiếng Việt, đặc biệt là phân môn Tập đọc và Luyện từ và câu. Học sinh muốn viết đúng từ thì phải hiểu được nghĩa của từ và phát âm đúng. Trong các giờ Tập đọc chúng ta dành nhiều thời gian hơn cho việc sửa lỗi phát âm cho học sinh, đặc biệt là hai âm"- n". Giáo viên cần phát âm mẫu cho học sinh học tập và yêu cầu học sinh phát âm lại cho chính xác. Ngoài ra giáo viên hướng dẫn học sinh viết đúng chính tả trên cơ sở hiểu đúng nghĩa của từ. - Soạn một số bài tập chính tả phù hợp với đặc điểm của học sinh. Để thực hiện tốt mục tiêu của phân môn chính tả và tránh áp đặt không cần thiết trong nội dung dạy học, mỗi giáo viên cần chuẩn bị những bài tập chính tả phù hợp với học sinh lớp mình, trường mình, tương ứng với những phần dạy chính tả tự chọn trong từng bài học. Công việc soạn bài tập đòi hỏi giáo viên phải thống kê được những lỗi chính tả mà học sinh lớp mình thường mắc, chọn những lỗi cần luyện tập trong từng bài học cụ thể, soạn bài tập dưới nhiều dạng để tạo hứng thú cho học sinh. Do đó, giáo viên cần làm công việc này theo nhóm (ví dụ giáo viên dạy lớp 5 của một trường) để cùng nhau chia sẻ kinh nghiệm biên soạn. Giáo viên có thể chuẩn bị một đến hai bài tập để dạy ở một tiết học chính tả có nội dung tự chọn. - Một điều rất quan trọng trong việc dạy chính tả cho học sinh vùng phương ngữ là dạy cho các em biết một số mẹo luật chính tả. Sau đây là một số mẹo phân biệt "l - n" * Mẹo 1: Một chữ ta không biết là "n" hay "l " nhưng nó đứng đầu trong một từ láy âm, không phải là điệp âm thì dứt khoát là"l" chứ không phải là "n" * Mẹo 2: Khả năng kết hợp âm: "l" đứng trước âm đệm nhưng "n" lại không đứng trước âm đệm. Do đó "n" không bao giờ đứng trước vần bắt đầu bằng oa, uê, uy. Trái lại"l'lại đứng trước các vần đó, ví dụ: loan, luân, luyện... * Mẹo 3: Mẹo luật láy âm, điệp âm : "l" láy âm rất rộng rãi, trái lại "n" không láy âm với một âm nào khác mà chỉ điệp âm âu và cả hai chữ phải cùng có âm đầu là "l" hoặc "n". Vì vậy ta chri cần biết âm đầu của một chữ là đủ. Ví dụ: lấp loáng, long lanh, lanh lảnh.... no nê, ninh ních, nuồn nuột,.... * Mẹo 4: Đối với trường hợp "l" và "n" đứng ở vị trí thứ 2 trong một từ láy thì: "n" khi láy âm chỉ láy với "gi" và không láy với âm nào khác. Trái lại"l" không láy với "gi" mà láy với các âm khác (ngoại lệ có khúm núm, khệ nệ). * Mẹo 5: Những chữ không phân biệt được là "l" hay "n" nhưng đồng nghĩa với một số từ khác với "nh" thì chữ ấy phải là "l". Ví dụ: lăm le (nhăm nhe) lỡ làng (nhỡ nhàng" Tuy nhiên, tất cả các mẹo luật trên chỉ ở mức độ tương đối, người giáo viên phải biết vận dụng linh hoạt để giảng dạy cho học sinh. Qua việc tìm hiểu nguyên nhân và xác định được những trọng điểm chính tả cho học sinh ở trường Tiểu học Việt Dân, tôi đã đưa ra một số biện pháp cùng với ban giám hiệu và tập thể giáo viên nhà trường áp dụng và thực nghiệm giảng dạy trên khối lớp 5 của trường. Qua một học kỳ, được sự chỉ đạo sát sao của ban giám hiệu nhà trường và tổ chuyên môn, cùng với sự nỗ lực của tập thể giáo viên khối 5 chúng tôi đã thu được một kết quả cụ thể như sau: STT Lớp Tổng số Các lỗi chính tả thường mắc l - n d/gi/r/ch;tr/s/x... Cấu trúc âm tiết 1 5E1 28 3 em 1 em 0em 2 5E2 28 4 em 1 em 1 em III.PHẦN KẾT LUẬN- KIẾN NGHỊ Việc
Tài liệu đính kèm: