Biện pháp áp dụng trò chơi vào giảng dạy lớp ghép 1 + 2 truờng tiểu học Lê Văn Tám

I/ TÊN ĐỀ TÀI

BIỆN PHÁP ÁP DỤNG TRÒ CHƠI VÀO GIẢNG DẠY LỚP GHÉP 1 + 2 TRUỜNG TIỂU HỌC LÊ VĂN TÁM.

II/ ĐẶT VẤN ĐỀ

1. Bậc Tiểu học là bậc học đầu tiên của Giáo dục phổ thông. Bấc kỳ mọi người từ lúc bé đã phải trải qua bậc Tiểu học. Lý luận và thực tiễn đều khẳng định rằng, những dấu ấn của trường Tiểu học ảnh hưởng rất lớn, sâu sắc đến cả cuộc đời của con người. Việc giáo dục các em là một nhiệm vụ vô cùng quan trọng mà cả xã hội đều quan tâm, bởi vì “Trẻ em là chủ nhân tương lai của đất nước”. Hơn nữa thế kỷ XXI, thế kỷ của khoa học kỹ thuật không ngừng phát triển, yêu cầu những chủ nhân phải là những con người có năng lực, trí tuệ, năng động và sáng tạo.

Để đào tạo những con người đáp ứng với yêu cầu của xã hội hiện nay và đáp ứng với mục tiêu của Nghị quyết TWII khoá VIII đã nêu giáo dục đến năm 2010 là “Nâng cao chất lượng toàn diện bậc Tiểu học” đó là nhiệm vụ vô cùng to lớn của mỗi người giáo viên. Trong thời gian này xã hội đang nói nhiều về giáo dục, về chất lượng học sinh lên lớp, học sinh ngồi nhầm lớp. Từ khi có cuộc vận động “hai không” của Bộ trưởng Bộ giáo dục, những người giáo viên đứng lớp lại là người trực tiếp giảng dạy, giáo dục các em như tôi phải đặt ra cho mình nhiệm vụ, phải suy nghĩ làm sao để “sản phẩm” của mình góp phần nâng cao chất lượng giáo dục, để các em phát triển hoàn thiện hơn, để ngày mai xã hội có những chủ nhân tốt, thế giới có nhũng chủ nhân tương lai.

 

doc 19 trang Người đăng minhtuan77 Lượt xem 765Lượt tải 0 Download
Bạn đang xem tài liệu "Biện pháp áp dụng trò chơi vào giảng dạy lớp ghép 1 + 2 truờng tiểu học Lê Văn Tám", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iáo viên: Thông thường giáo viên luôn luôn tham khảo và sử dụng các biện pháp dạy học theo sách hướng dẫn. Việc này giúp giáo viên rất nhiều trong quá trình giảng dạy. Song việc áp dụng và tuân thủ với sách là điều hoàn toàn chính xác nhưng quá trình áp dụng ở lứa tuổi học sinh lớp 1, 2 các em sẽ mau chán và không thích học vì các em còn ở tuổi ham chơi. Hơn nữa lớp ghép 1 + 2 là lớp học ghép hai nhóm trình độ cùng học chung trong một không gian nhất định, thời lượng cho một tiết học vẫn như mọi tiết học của các lớp khác nên việc giảng dạy của giáo viên hết sức khó khăn.
* Về học sinh: Các em còn ở lứa tuổi ham chơi, chưa có ý thức tự giác, tích cực học tập nên các em hay lơ đãng trong giờ học, ít tập trung chú ý và tiếp thu kiến thức một cách thụ động. Có nhiều em lại thích học môn này nhưng lại không thích học môn khác, không học đều ở các môn học. Việc nắm kiến thức đôi lúc cũng mau nhớ nhưng cũng chóng quên.
3. Lý do chọn đề tài:
 Qua việc khảo sát chất lượng học sinh đầu năm tôi nhận thấy chất lượng học sinh yếu cao. Học sinh không tập trung nghe giảng, chán làm việc,thậm chí có một số em lớp 1 không chịu tham gia vào các hoạt động học tập mà còn thường xuyên xin phép ra ngoài.
Do đặc thù của vùng miền, các em nói câu cụt, trả lời không hoàn chỉnh cả câu, các em rụt rè, sợ sệt. Các em ham chơi, ít thích học . Phụ huynh học sinh chưa quan tâm đúng mức đến con em của mình. Bên cạnh đó, do đặc điểm tâm lý đồng thời do việc giảng dạy của giáo viên chưa đáp ứng với nhu cầu tiếp thu kiến thức của các em.
Qua nhiều năm giảng dạy lớp ghép 1 + 2, tôi đã theo dõi và nắm không ít những khó khăn mà nó ảnh hưởng đến việc tiếp thu kiến thức của các em. Làm thế nào để học sinh tiếp thu kiến thức một cách tự nhiên, nhớ lâu và mang lại chất lượng cho các em là điều tôi trăn trở lo lắng. Để giúp học sinh khắc sâu kiến thức, nhanh thuộc bài, nhớ lâu và tự tìm hiểu chiếm lĩnh kiến thức một cách nhẹ nhàng. Học sinh cảm thấy vui vẻ, nhanh nhẹn cởi mở, quá trình học tập trở thành một hình thức vui chơi hấp dẫn, lôi cuốn được tất cả học sinh cùng tham gia, bản thân tôi tự nghiên cứu đề ra cho mình nhiệm vụ và biện pháp áp dụng trò chơi vào giảng dạy lớp ghép 1 + 2 này.
4. Giới hạn nghiên cứu đề tài:
 Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 9/2008 đến tháng 3/2009.
 Thời gian áp dụng sáng kiến: Tháng 9/2008 dến tháng 3/2009.
 Phạm vi nghiên cứu: Học sinh lớp ghép 1 + 2 trường tiểu học Lê Văn Tám.
III/ CƠ SỞ LÝ LUẬN
Trong dạy học nói chung, ở Tiểu học nói riêng, học sinh đóng vai trò chủ đạo. Học sinh tư duy một cách linh hoạt, huy động tích hợp các kiến thức và khả năng của mình vào các tình huống khác nhau. Vì vậy, có thể coi việc áp dụng trò chơi học tập là một trong những biểu hiện năng động nhất của hoạt động trí tuệ học sinh. Cũng qua việc áp dụng trò chơi học tập giáo viên giúp học sinh từng bước phát triển năng lực tư duy, rèn luyện tính nhanh nhẹn, khả năng phán đoán, tinh thần tự giác và kỹ năng suy luận. Có thể nói: Áp dụng trò chơi vào giảng dạy lớp ghép 1 + 2 không những hình thành kỹ năng mà còn giúp học sinh phát triển, sáng tạo và khả năng giải quyết vấn đề.
 	Vì vậy khi giảng dạy giáo viên cần tích cực tìm tòi, nghiên cứu và tạo nên nhiều trò chơi để tránh sự nhàm chán trong các tiết học . Bên cạnh đó, giáo viên áp dụng trò chơi đúng lúc, đúng chỗ và phù hợp với từng đối tượng học sinh. Giáo viên thường xuyên có biện pháp kích thích học sinh như: khen ngợi, tuyên dương, cổ vũ, thưởng phạt rõ ràngtạo sự hứng thú cho học sinh cùng tham gia. Từ đó, học sinh ghi nhớ nội dung bài học thông qua trò chơi.
IV/ CƠ SỞ THỰC TIỄN
Trà Giang là một xã khó khăn của huyện miền núi Bắc Trà My, giao thông cách trở, dân cư ở thưa thớt. Đa số các em là con em nông dân, điều kiện kinh tế hạn hẹp ảnh hưởng đến việc học tập của các em. Sự quan tâm của một số phụ huynh đối với các em chưa đúng mức.Hơn nữa, môi trường tiếp xúc đến với các em còn hạn chế. 
Do đặc thù của vùng miền, học sinh học ghép hai lớp với hai nhóm trình độ khác nhau vào cùng chung một không gian.
Được sự phân công của Ban giám hiệu, bản thân tôi trực tiếp giảng dạy lớp ghép 1 + 2. Ngay từ đầu năm tôi đã tìm hiểu và nhận thấy những khó khăn và thuận lợi trong việc giảng dạy lớp ghép 1 + 2 như sau:
a. Thuận lợi:
 Được sự quan tâm chỉ đạo sâu sát của Phòng giáo dục, Ban giám hiệu nhà trường, chuyên môn nhà trường, tổ chuyên môn và sự đóng góp giúp đỡ của đồng nghiệp.
 Bản thân tôi đã nhiều năm giảng dạy lớp ghép 1 + 2.
 Giáo viên được trang bị đầy đủ sách giáo khoa, sách giáo viên, sách tham khảo và đặc biệt là bộ đồ dùng dạy cho các môn học tương đối đầy đủ.
 Học sinh có đồ dùng cá nhân để phục vụ cho việc học tập và tham gia vào trò chơi học tập.
 Bộ đồ dùng của giáo viên và học sinh giống nhau, khi sử dụng rất thuận lợi.
 Sự quan tâm của phụ huynh cũng góp phần nâng cao chất lượng học tập của học sinh. 
b. Khó khăn:
 Do đặc điểm tâm sinh lý của học sinh. Học sinh chưa có ý thức học tập trong một môi trường gò bó, ràng buộc. Trong giao tiếp còn hạn chế, học sinh hay lơ đãng, không tự giác, ít hoạt động, ít tập trung vào bài học. Ở độ tuổi các em dễ tiếp thu, mau nhớ cũng chóng quên dẫn đến việc học tập chưa cao.
 Bên cạnh đó, còn có một số phụ huynh chưa thực sự quan tâm đến con em mình cũng ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng học tập của học sinh.
 Học sinh học với hai nhóm trình độ khác nhau cùng chung trong một không gian, thời gian nhất định, chung một cái bảng lớn.
V/ NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
Nhằm thực hiện tốt việc dạy và học, nhằm đào tạo những con người năng động sáng tạo, tư duy một cách nhẹ nhàng, không áp đặt nhưng mang lại hiệu quả cao. Giáo viên cần hướng dẫn học sinh theo định hướng đúng đắn từ điều kiện giao tiếp trong sinh hoạt, biết áp dụng vào thực tiễn và tìm tòi, quản lý các hoạt động sao cho hợp lý để các kỹ năng trong cuộc sống thường ngày dần dần mang lại hiệu quả giảng dạy cao.
Để giúp học sinh áp dụng các trò chơi vào việc học,giáo viên cần xác định cấu trúc và kỹ năng như sau:
Thứ tự
Trình tự cấu trúc
Hệ thống kỹ năng
01
Định hướng trò chơi
- Kỹ năng giao tiếp trong sinh hoạt thường ngày.
- Kỹ năng tiếp thu những trò chơi mới từ giáo viên, từ các thông tin đại chúng.
02
Lập chương trình nội dung
- Kỹ năng quan sát, thực hành.
- Kỹ năng hoạt động.
- Kỹ năng thu thập thông tin.
- Kỹ năng liên tưởng.
- Kỹ năng nhớ.
- Kỹ năng vận dụng kiến thức.
03
Quá trình thực hiện 
- Kỹ năng diễn đạt bằng việc làm (tham gia các trò chơi dân gian, các trò chơi mà giáo viên cung cấp, các trò được tham khảo từ các thông tin đại chúng).
- Kỹ năng diễn đạt bằng lời nói (tính toán, dùng từ, đặt câu, đáp lời người khác, giao tiếp, sinh hoạt).
2/ Phân tích minh hoạ bằng các biện pháp cụ thể:
Để giúp học sinh nắm được kiến thức từ các trò chơi đòi hỏi người giáo viên đứng lớp phải có một quá trình tìm hiểu: Tìm hiểu từ trò chơi dân gian mà học sinh tự tổ chức, trò chơi từ truyền hình, bên cạnh đó những trò chơi đã được học tập trong các đợt tập huấn, dự giờ thăm lớp cũng góp phần quan trọng vào việc giảng dạy lớp ghép 1 + 2 này. 
 	Học sinh của chúng ta rất ngây thơ, ham chơi, chưa tự giác tích cực nên trong học tập các em mau chán theo thời gian. Vì vậy, giáo viên phải thay đổi nhiều hình thức trò chơi, nhiều nội dung trò chơi, áp dụng cho đúng thời điểm và phù hợp với đặc điểm tâm lý của học sinh nhằm mang lại hiệu quả cao trong các tiết học. Tôi đã tìm hiểu tâm lý của học sinh và cùng tham gia với tính cách tham gia và hỗ trợ để giúp các em phát huy năng lực phát huy khả 
năng tiếp thu kiến thức và động viên dìu dắt những học sinh còn chậm chạp, yếu kém. Tôi đã phân thành hai loại trò chơi:
a. Trò chơi dành chung cho cả hai nhóm trình độ:
Đó là các trò chơi mà cả hai nhóm trình độ khác nhau đều có thể cùng tham gia những trò chơi này. Ví dụ như các trò chơi:
+Trò chơi: Rung chuông vàng.	
Tôi áp dụng trò chơi rung chuông vàng vào tiết sinh hoạt đội và các tiết sinh hoạt chủ nhiệm nhằm kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh. Để tổ chức trò chơi mang lại hiệu quả cao, tuỳ nội dung từng tiết học, tôi có thể tổ chức chung cả hai nhóm trình độ như: Tổ chức cho các em chơi trò chơi Rung chuông vàng để kiểm tra chương trình về Đội, Sao Nhi đồng. 
Học sinh đang tham gia trò chơi: Rung chuông vàng
 - Chuẩn bị: 
Giáo viên: Tôi chuẩn bị đặt ra một số câu hỏi và đáp án có nội dung liên quan đến chương trình về Rèn luyện đội viên. 
Học sinh: Bảng con, phấn, nội dung bài học mà giáo viên đã truyền đạt 
- Tiến hành tổ chức trò chơi:
 Giáo viên đọc câu hỏi và những đáp án trong đó có một đáp án rđúng và các đáp án sai cho học sinh suy nghĩ chọn đáp án và ghi kết quả vào bảng con. Sau đó, giáo viên đọc đáp án đúng. Nếu học sinh nào có đáp án đúng với đáp án của giáo viên thì được tiếp tục tham gia trò chơi.
- Tác dụng của trò chơi:
Kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh một cách thiết thực. Tập cho học sinh tự giác trong học tập và tính nhanh nhẹn, mạnh dạn. Tuỳ từng thời điểm kiểm tra mà giáo viên chọn nội dung cho phù hợp
 + Trò chơi: Đố vui .
- Chuẩn bị: 
Giáo viên: Tôi chuẩn bị đặt ra một số câu đố có nội dung liên quan đến các con vật, màu sắc.v.v. 
Học sinh: Một số câu đố mà các em đã biết hoặc đã được nghe người khác đố.
- Tiến hành tổ chức trò chơi:
Các học sinh ở hai nhóm trình độ khác nhau có thể nêu những câu đố mà các em đã biết, đã nghe cho bạn trả lời. Khi tổ chức trò chơi này cả hai nhóm trình độ hỗ trợ cho nhau để cùng tham gia sinh hoạt, tạo không khí phấn khởi và tính mạnh dạn cho tất cả học sinh. Bên cạnh đó, giúp các nhớ lâu về đặc điểm ngoại hình của con vật. 
Chẳn hạn, câu đố về con gà trống dưới đây sẽ giúp các em nhớ đặc điểm của con gà là có mào đỏ, lông mượt như tơ, dậy sớm, như: 
 Con gì mào đỏ
Lông mượt như tơ
Sáng sớm tinh mơ
 Gọi người thức dậy
Học sinh ở nhóm khác sẽ trả lời : Con gà. Đại diện nhóm vừa trả lời xong sẽ đố lại nhóm bạn. Khi học sinh tham gia trò chơi này, các em sẽ rất mạnh dạn, tự tin và hào hứng. Tạo tinh thần đoàn kết, giúp đỡ nhau trong học tập. Các trò chơi này sẽ hỗ trợ cho việc học Tập làm văn kể về con vật nuôi trong nhà của nhóm trình độ hai sau này.
Bên cạnh đó, tôi còn vận dụng trò chơi Đố vui để có thể giúp học sinh giải quyết một bài tập ở phân môn Chính tả hoặc Luyện từ và câu của một nhóm trình độ để có thời gian tôi làm việc với nhóm trình độ kia.
+ Trò chơi: “Thử tài đoán vật”.
Để tổ chức trò chơi thử tài đoán vật, tôi chuẩn bị một số vật quen thuộc với các em sau đó chia lớp thành hai đội, lần lượt mỗi đội cử hai bạn lên đoán và ghi tên đồ vật đó. Kết thúc trò chơi, đội nào ghi đúng tên đồ vật nhưng không phạm luật chơi sẽ thắng. Trò chơi này áp dụng nhằm giúp học sinh củng cố về tên gọi, màu sắc, hình dáng của một số vật với mục đích giúp các em sau này học tốt môn Tập làm văn, Luyện từ và câu, Mỹ thuật,
 Nói chung tuỳ theo từng nội dung có thể tổ chức cho cả hai nhóm trình độ cùng tham gia, tôi cũng không quên tìm hiểu và tạo ra nhiều trò chơi khác nhau để thu hút các em tham gia. 
Tóm lại, những trò chơi này dễ tổ chức, dễ nhớ và có thể chơi giữa nhiều nhóm trình độ khác nhau, các em có thể tự tổ chức trò chơi không cần hướng dẫn, chủ yếu tổ chức trong tiết sinh hoạt Đội, sinh hoạt lớp hoặc các tiết dành cho địa phương nhưng nó lại ghi sâu vào tâm trí của tuổi thơ nên nó hỗ trợ đắc lực cho nội dung giải quyết bài tập khi họcnhững trò chơi này mang tính tập thể có thể dành cho cả hai nhóm trình độ khác nhau nó tạo tinh thần đoàn kết tốt và học sinh sẽ rất thích đến trường từ đó giúp cho việc vận động học sinh đến lớp đầy đủ không có học sinh bỏ học hay vắng học.
b) Loại trò chơi do giáo viên tổ chức dành riêng cho từng nhóm đối tượng khác nhau trong lớp ghép 1 + 2:
Để tổ chức những trò chơi lồng ghép vào trong các tiết học, tôi đã nghiên cứu, tìm tòi, tham khảo thu thập thông tin để tổ chức cho học sinh chơi trò chơi nhằm hỗ trợ đắc lực cho việc dạy lớp ghép. Trong một tiết dạy học ở lớp, nếu giáo viên cùng hoạt động chung cả hai nhóm trình độ thì học sinh không thể tiếp thu mà còn nghe “nhầm” chương trình của nhóm trình độ kia nên tôi đã áp dụng trò chơi đối với một nhóm trình độ (trong nhóm trình độ đó tôi chia ra thành hai, ba hoặc nhiều nhóm nhỏ), các em tự hoạt động giải quyết một bài tập trong tiết học để giáo viên có thời gian làm việc với nhóm trình độ kia. Ví dụ như:
+Trò chơi: Đô mi nô
Dạy tuần 22 ở nhóm trình độ 1 có tiết Toán và nhóm trình độ 2 là tiết Luyện từ và câu. Để tiết học tiến triển theo đúng thời gian của một tiết thì tôi phải áp dụng trò chơi “Đô mi nô” ở lớp 2. Khi áp dụng trò chơi này tôi phải làm những thẻ từ và thẻ ghi câu giải nghĩa cho thẻ từ (thay vì những con Đô mi nô). Để tránh sự làm việc quá mức của giáo viên tôi chỉ cần giao thẻ “Đô mi nô” cho nhóm trình độ 2, các em tự tham gia vào trò chơi.
Giáo viên theo dõi nhóm trình độ 2 chơi trò chơi: Đô mi nô.
- Chuẩn bị:
Giáo viên chuẩn bị cho các nhóm: Các thẻ từ, các thẻ giải nghĩa từ hoặc các tranh và thẻ ghi nội dung (từ ngữ) thể hiện trong tranh.
- Tiến trình của trò chơi : 
 Thẻ từ úp xuống bàn, học sinh 1 lần lượt chọn một thẻ từ và học sinh 2 chọn một thẻ giải nghĩa. Nếu phần giải nghĩa đúng với từ ngữ đó thì được mở ra và ghép lại gần nhau. Cứ như vậy cho đến hết những từ ngữ có trong bài tập. Trò chơi này áp dụng để học sinh giải quyết bài tập ở phân môn Luyện từ và câu ở nhóm trình độ hai.
 Đối với nhóm trình độ Một, tôi đã áp dụng trò chơi “Đô mi nô” vào phân môn Tập đọc tiết 1 bài tập 2 có câu hỏi Tìm tiếng ngoài bài có vần Tôi đã ghi các vần và một số từ có vần cần tìm vào thẻ đô mi nô, sau đó cho tổ chức cho các nhóm chọn vần và từ trùng với vần sẽ được lật lên và đặt sát vào nhau.
- Trò chơi : Đố bạn.
(Nội dung trò chơi: Xem phần phụ lục)
Trò chơi này được áp dung vào tiết Luyện từ và câu, Đạo đức, Tự nhiên xã hội, Toán, ... Tuỳ thuộc vào nội dung bài tập tôi đã tổ chức cho các em theo nhiều hoặc ít nhóm mà các em cùng nhau tự đặt ra câu hỏi, tìm ra câu trả lời cho thích hợp. Trong thời gian nhóm trình độ 2 (lớp 2) làm việc với trò chơi đố bạn, tôi giành thời gian đó để dạy cho nhóm trình độ 1. Sau đó tổ chức các nhóm đố nhau trước lớp. Giáo viên chỉ cần chốt ý đúng từ những câu hỏi của học sinh. 
- Trò chơi: “Thuyền ai”.
Tổ chức ở lớp 1, giáo viên chuẩn bị các thẻ chữ cái, thẻ vần. Khi dạy học vần ở lớp 1 tôi đã áp dụng trò chơi này.
 + Tiến hành trò chơi: 
Giáo viên đính chữ cái (vần) hô thuyền ai thuyền ai? Học sinh hô tên thuyền theo chữ cái (vần) của giáo viên đính ở bảng lớp. Giáo viên hỏi thuyềnchở gì? - Học sinh đáp câu có chữ cái (vần) theo yêu cầu của giáo viên. Trò chơi này áp dụng với môn học vần ở lớp 1 rất có hiệu quả. Trò chơi có tác dụng củng cố lại kiến thức mà học sinh đã được học nhằm giúp các em nhớ lâu hơn. Khi áp dụng trò chơi Thuyền ai tôi thường lồng vào phần củng cố bài.
Trò chơi : “Ghép hoa”.
(Nội dung trò chơi: Xem phần phụ lục)
Trò chơi ghép hoa được áp dụng ở các môn học: Toán, Luyện từ và câu, Đạo đức, Tự nhiên xã hội. Trò chơi ghép hoa thường được sử dụng vào giải quết bài tập ở phân môn Luyện từ và câu, phân môn Đạo đức, phân môn Tự nhiên xã hội và tiết luyện tập hay luyện tập chung của môn Toán ở lớp 1 và lớp 2 .
Nhìn chung trò chơi ghép hoa sẽ giúp học sinh nhanh nhớ nội dung bài cũ và củng cố kiến thức một cách chắc chắn.
- Trò chơi : “Ong tìm chữ” hỗ trợ cho tiết học vần lớp 1.
Các thẻ từ, thẻ chữ đã chuẩn bị được dùng trong trong nhiều tiết học vần khi học xong tiết 1 của môn học vần lớp 1, tôi cho các em tìm và đính vào bảng cài các từ có vần mà các em đã được học trong tiết học hôm nay. Hai, ba hay nhiều đội trong nhóm cùng tham gia, đội nào tìm được nhiều hơn sẽ thắng.
- Trò chơi: “Bin go”.
Giáo viên chuẩn bị các phiếu pin go, giáo viên cho học sinh nhẩm kết quả bài tập ở phiếu pin go trong một thời gian nhất định. Sau đó giáo viên đính và đọc kết quả, học sinh tìm nội dung trong phiếu có bài tập nào đúng với kết quả của giáo viên sẽ làm ký hiệu. Nếu có 3 phép tính cùng thẳng hàng theo hàng dọc, ngang, chéo sẽ được hô “pin go”.Trò chơi này dùng trong tiết toán lớp 1 hoặc lớp 2 có bài toán tinh nhẩm rất có hiệu quả.
Nhóm trình độ hai đang tham gia trò chơi: Bingo
Bên cạnh đó còn rất nhiều trò chơi như: Đồng hồ kim, Tôi là ai, Ô số , Ô chữ thần kỳ, Rung chuông vàng, Nối tiếp, Tiếp sức, Rắn và thang.v.v. đã được tôi vận dụng vào tổ chức cho học chơi trò chơi để giúp tôi dạy lớp ghép này.
Tóm lại đối với một giáo viên giảng dạy lớp ghép, trong cùng một thời gian là 35 đến 40 phút nhất định nhưng giáo viên phải chuyển tải hết nội dung cả hai nhóm trình độ là hết sức khó khăn, đòi hỏi người giáo viên phải chuẩn bị chương trình để học sinh tự hoạt động chiếm lĩnh kiến thức một cách nhẹ nhàng, mau nhớ, học sinh học với tính cách hỗ trợ cho nhau, học sinh giỏi hỗ trợ cho học sinh yếu, học sinh mạnh dạn hỗ trợ cho học sinh rụt rè từ đó tất cả các em đều phát triển. Hơn nữa việc tổ chức trò chơi học tập trong lớp ghép là một điều cần thiết giúp cho giáo viên có thời gian để giảng dạy nội dung cho nhóm trình độ kia. Trong quá trình tổ chức trò chơi đòi hỏi người giáo viên phải chuẩn bị các thẻ từ, thẻ số và các phần bài tập cần sử dụng trong chương trình một cách chu đáo, chính xác để mang lại hiệu quả cao trong các tiết học. Khi tổ chức trò chơi, học sinh phải chủ động, tự suy nghĩ, sáng tạo, tìm tòi kết quả mới mang lại hiệu quả cao. Song việc theo dõi động viên khích lệ của giáo viên để giúp tất cả các đối tượng học sinh phát huy năng lực trí tuệ theo hướng đúng nhất.
VI/ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
 	Qua việc tìm tòi nghiên cứu và kinh nghiệm giảng dạy lớp ghép ở vùng khó khăn tôi đã áp dụng tổ chức chương trình vào giảng dạy cho các em. Điều đầu tiên tôi nhận thấy là các em đi học đều, ít vắng học. Bên cạnh đó giúp các em nhanh nhẹn, linh hoạt, ham học và nhất là rất thích được tham gia vào trò chơi, rất thích mình sôi nổi hơn các bạn từ đó việc lĩnh hội kiến thức của học sinh mang lại hiệu quả cao. Chất lượng học tập của các em tiến bộ rõ rệt, kết quả cụ thể qua các môn học như sau:
Môn: Toán
Tổng số học sinh
Mốc thời gian
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu
SL
TL
SL
TL
SL
TL
SL
TL
16/4
(Cả 2 nhóm trình độ)
Đầu năm
4
25
%
8
50
%
4
25
%
Giữa học kỳ I
5
31,25 %
4
25
%
5
31,25 %
2
12,5 %
Cuối học kỳ I
5
31,25 %
4
25
%
7
43,75 %
Giữa học kỳ II
6
37,5 %
4
25
%
6
37,5 %
Môn: Tiếng Việt
Tổng số học sinh
Mốc thời gian
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu
SL
TL
SL
TL
SL
TL
SL
TL
16/4
(Cả 2 nhóm trình độ)
Đầu năm
5
31,25 %
5
31,25 %
6
37,5 %
Giữa học kỳ I
3
18,75 %
4
25
%
8
50
%
1
6,25 %
Cuối học kỳ I
3
18,75 %
5
31,25 %
8
50
%
Giữa học kỳ II
6
37,5 %
5
31,25 %
5
31,25 %
Từ kết quả trên cho thấy, chất lượng học sinh sau thời gian áp dụng sáng kiến chuyển biến rõ rệt. Học sinh nắm vững kiến thức là điều kiện để các em học tốt lên các lớp trên.
VII/ KẾT LUẬN
Qua việc vận dụng sáng kiến kinh nghiệm này vào quá trình giảng dạy, bản thân tôi nhận thấy đạt hiệu quả rõ nét đồng thời rút ra bài học kinh nghiệm để áp dụng sáng kiến này vào giảng dạy như sau:
- Để học sinh có điều kiện tham gia vào trò chơi một cách có hiệu quả, giáo viên phải chuẩn bị thật chu đáo từ phiếu trò chơi. Có kế hoạch đầy đủ trước khi soạn giảng, phiếu hay nội dung trò chơi phải sát với chương trình các em đang học. Hướng dẫn học sinh tham gia trò chơi học tập một cách nhiệt tình, nhắc nhở theo dõi và dìu dắt tất cả các em đều tham gia. Quan tâm rõ nét đến từng đối tượng khác nhau tuỳ theo mức độ của các em.
- Luôn tạo sự hào hứng, vui vẻ, thoả mái cho các em, trong các tiết học. Đặc biệt là luôn luôn chú ý tạo tình huống giao tiếp, tạo điều kiện để tất cả học sinh cùng tham gia vào trò chơi.
- Sự kết hợp của học sinh với giáo viên phải hài hoà, học sinh phải có trách nhiệm trong việc tham gia trò chơi học tập và phải có tinh thần học tập từ việc tham gia trò chơi vì “chơi mà học” chứ không phải chơi để quên đi việc học.
- Tuỳ theo nội dung bài học, tiết học mà giáo viên tổ chức trò chơi cho phù hợp bên cạnh đó giáo viên phải bố trí thời gian tổ chức cho hợp lý khỏi ảnh hưởng đến các nội dung khác. Việc phân bố trò chơi thay đổi theo tùng nội dung, từng môn học cũng rất quan trọng để tránh sự nhàm chán ở các em. Luôn thay đổi nhóm chơi, số lượng học sinh trong nhóm.
- Giáo viên luôn luôn có nhận xét, cổ vũ, động viên khích lệ, khen chê rõ ràng để kịp thời mang uốn nắn học sinh yếu nhằm mang lại hiệu quả chất lượng cao cho cả lớp học.
Khi thực hiện áp dụng sáng kiến này, bản thân tôi phải chú ý, theo dõi từng em trong suốt quá trình tổ chức từ đầu năm đến nay.
Tóm lại, khi thực hiện đề tài này đòi hỏi người giáo viên giảng dạy phải hết sức nhiệt tình, có trách nhiệm cao để đầu tư vào việc chuẩn bị và tổ chức trò chơi học tập.
VIII/ ĐỀ NGHỊ
* Đối với học sinh:
- Có đầy đủ sách giáo khoa, dụng cụ học tập.
- Đọc và nghiên cứu kỹ nội dung đề bài và lệnh của trò chơi.
- Có tinh thần và trách nhiệm khi tham gia vào trò chơi.
* Đối với giáo viên: 
- Có đầy đủ sách giáo khoa, sách tham khảo, tư liệu tập huấn và đầu tư vào việc nghiên cứu nội dung bài dạy.
- Gần gũi với học sinh, nắm bắt được tâm lý của từng đối tượng học sinh để có biện pháp tốt hơn trong việc áp dụng tổ chức trò chơi học tập.
* Đối với cấp trên:
Thường xuyên mở hội thảo chuyên đề về giảng dạy lớp ghép nhất là lớp ghép 1 + 2. 
Trên đây là kinh nghiệm áp dụng trò chơi học tập vào giảng dạy lớp ghép 1 + 2. Qua quá trình tổ chức, tôi xin ghi lại sáng kiến này mong đồng chí đồng nghiệp, các cấp lãnh đạo đóng góp xây dựng để mô hình sáng kiến đạt hiệu quả hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
	Người thực hiện
	 Đỗ Thị Hoè
IX/ PHẦN PHỤ LỤC:
1. Trò chơi: Đố bạn.
Giáo viên hướng dẫn cho học sinh về quy định trò chơi phải tập trung vào giải quyết 1 bài tập trong Luyện từ và câu, Toán hoặc một số môn học khác tuỳ thuộc vào nội dung bài dạy. 
Chuẩn bị: Nội dung bài tập sách giáo khoa hoặc thêm một số bài tập mang nội dung tương tự với bài tập trong tiết dạy (dùng để liên hệ thực tế)
Tiến trình của trò chơi: Giáo viên giao câu hỏi hoặc bài tập cần giải qu

Tài liệu đính kèm:

  • docSKKN lop ghep 12.doc