Tài liệu Bồi dưỡng thường xuyên - Module TH1: Một số vấn đề tâm lý học dạy học Tiểu học

A. GIỚI THIỆU TỔNG QUAN

 - Để có thể dạy tốt ở tiểu học thì GV cần hiểu được HS của mình, không phải là hiểu chung chung mà cần hiểu kĩ về đặc điểm của mỗi em như những chủ thể độc nhất vô nhị.

 - Luật Giáo dục của Nhà nước ta quy định: "Giáo dục tiểu học nhằm giúp HS hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản để HS tiếp tục học trung học cơ sở" (Mục 2 Điều 27).

 - HS là chủ thể của hoạt động học, là nhân vật trung tâm, là mục tiêu giáo dục, nhưng sự thành bại của HS tiểu học lại tùy thuộc vào hoạt động dạy của GV, người giữ vai trò có tính quyết định sự thành bại của giáo dục.

- Module này đề cập đến đặc điểm tâm lí của HS tiểu học, những đặc điểm cơ bản về dạy và học ở tiểu học, những yêu cầu đối mới nội dung và phương pháp dạy học ở tiểu học, đồng thời nêu một số giải pháp sư phạm nhằm nâng cao khả năng chuyên môn, nghiệp vụ cho GV.

B. MỤC TIÊU

 - Sau khi kết thức đợt tập huấn theo module học viên có thể lĩnh hội, tăng thêm khả năng của mình về nhận thức, kĩ năng và thái độ:

 - Hiểu, nắm vững được những nét đặc trưng về tâm lí của trẻ em lứa tuổi HS tiểu học; biết rõ được đặc điểm của hoạt động học của HS và hoạt động dạy của GV. Đồng thời biết rõ được mối quan hệ biện chứng giữa hoạt động dạy, hoạt động học và sự phát triển tâm lí của HS.

 - Hình thành kĩ năng tự học, tự nghiên cứu tài liệu, kĩ năng tìm hiểu (nghiên cứu) về HS, kĩ năng chuẩn bị và thực hiện hoạt động dạy học theo phương pháp sư phạm phù hợp với đối tượng HS.

 - Nâng cao trách nhiệm, có đạo đức nghề nghiệp, yêu nghề, yêu quý tôn trọng trẻ em ("Yêu nghề mến trẻ").

 

doc 28 trang Người đăng hoanguyen99 Lượt xem 645Lượt tải 0 Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tài liệu Bồi dưỡng thường xuyên - Module TH1: Một số vấn đề tâm lý học dạy học Tiểu học", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
à:
	- Tiết học hình thành cái mới (kiến thức mới lần đầu tiên trẻ tiếp cận và cần lĩnh hội), ví dự như "phép tính cộng", mục đích của tiết học này là trẻ đầu năm lớp 1 lĩnh hội được thế nào là phép cộng- thao tác cộng 2 số (khái niệm cộng).
	- Tiết luyện tập thường chiếm tỉ lệ nhiều hơn trong quá trình học tập của HS tiểu học, vì phải luyện tập nhiều thì mới có kĩ năng, ví dụ như sau tiết học hình thành khái niệm phép tính cộng nêu trên HS được thực hiện phép tính cộng trên nhiều vật liệu với số lượng trong phạm vi 10, lúc đầu HS thực hiện thao tác gộp 2 số đã cho rồi đếm hoặc thực hiện theo cách đếm tiếp, nhiều lần luyện tập như thế trẻ sẽ có kĩ năng rồi đạt đến mức tự động hoá, như 2 + 3 = ? trẻ không cần thực hiện qua thao tác mà biết ngay được kết quả là 5 (thao tác nhẩm trong đầu diễn ra rất mau lẹ). Tính nhẩm mau lẹ trong giới hạn nhất định rất có ích cho cuộc sống bình thường của mỗi người.
	- Việc vận dụng kiến thức và kĩ năng đã học được diễn ra trong quá trình HS lĩnh hội kiến thức mới và trong quá trình luyện tập, đặc biệt là trong những tiết luyện tập tổng hợp.
Trong quá trình học tập nêu trên, đối với HS cái mới (kiến thức mới) lúc dầu là mục đích (mục tiêu) nhưng khi đã có kĩ năng thì nó đã trở thành phương tiện để phục vụ cho mục đích mới - lĩnh hội kiến thức mới.
Biện pháp sư phạm
	- Việc phân công GV phụ trách các lớp (chủ nhiệm lớp) ở trường tiểu học nên theo hướng chuyên môn hoá theo từng chu kì (khoảng 3-5 năm) theo lớp 1, lớp 2 và 3, lớp 4 và 5.
	- Việc bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ nên gắn với việc nghiên cứu, tìm hiểu đặc điểm tâm sinh lí, chương trình học của HS, phương pháp dạy học và việc tự bồi dưỡng của từng GV để nâng cao trình độ chuyên môn và sự hiểu biết rộng về khoa học và xã hội.
	- Nên tạo điều kiện bố trí các lớp 1 có số lượng HS phù hợp với sĩ số khoảng 24 đến 30 HS/lớp, những lớp trên mỗi lớp có thể nhiều HS hơn nhưng cũng không nên quá 40 HS/lớp.
	- Tạo điều kiện về cơ sở vật chất - thiết bị phục vụ cho hoạt động dạy và học phù hợp với lứa tuổi HS, phù hợp với nội dung và phương pháp dạy học. Tổ chức các hoạt động giáo dục, hoạt động vui chơi dành cho HS để các em được hưởng sự giáo dục toàn diện, phát triển phong phú, hài hoà, không bị quá tải.
IV. ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ
Cá nhân tự đánh giá qua việc thực hiện các việc sau:
Thảo luận, tìm hiểu và trình bày quan niệm của mình về các cấp độ phát triển hoạt động học của HS tiểu học.
Nhận xét về lí thuyết và thực tiễn của hoạt động dạy của GV và hoạt động học của HS, trên cơ sở đó phát hiện những điểm tích cực và những điểm còn bất cập.
Đề xuất biện pháp tối ưu (có lợi) cho việc tổ chức dạy học và phân công GV phụ trách lớp.
Hoạt động 4: HOẠT ĐỘNG DẠY CỦA GV VÀ GIẢI PHÁP SƯ PHẠM
MỤC TIÊU
	- Xác định được nội dung và phương pháp dạy học cơ bản ở tiểu học.
	- Phát hiện được một số điểm tích cực và những hạn chế về nội dung và phương pháp dạy học ở tiểu học.
	- Biết thu nhận thông tin từ thực tiễn, phân tích, đánh giá việc dạy học của GV và kết quả học tập của HS.
PHƯƠNG PHÁP
	- Nghiên cứu tài liệu, trao đổi, thảo luận nhóm.
	- Dự giờ thăm lớp, qua đó viết thu hoạch cá nhân.
	- Thực hành, áp dụng kết quả học tập, bồi dưỡng vào thực tiễn dạy học.
NỘI DUNG CHÍNH
GV tiểu học
GV tiểu học có thể coi là nhà giáo “tổng thể”, đại diện toàn quyền của nhà trường tổ chức quá trình phát triển của trẻ em, bởi lẽ họ là người:
	- Chịu trách nhiệm giáo dục HS cả lớp 30 – 40 em (số lượng HS trong một lớp có thể nhiều hơn hoặc ít hơn), có GV dạy HS một lớp rồi dạy tiếp những lớp trên, có GV dạy HS một lớp đến khi kết thúc năm học bàn giao cho GV khác rồi tiếp nhận HS mới.
	- Dạy hầu hết các môn học và tổ chức các hoạt động giáo dục cho HS lớp học mà mình được phân công. Hiện đã có nhiều trường có GV chuyên về ngoại ngữ, nghệ thuật, thể dục, thường họ không làm chủ nhiệm lớp nhưng cũng có chức năng, nhiệm vụ giáo dục HS như GV chủ nhiệm lớp.
	- Người có uy tín bậc nhất đối với HS, các em coi người thầy (cô) của mình như là khuôn mẫu, là “thần tượng”.
	- Mỗi GV tiểu học đều có trách nhiệm giáo dục HS theo mục tiêu GD toàn diện.
	- Lao động sư phạm của GV tiểu học là loại lao động phức hợp, tinh tế (cùng một lúc phải huy động tổng lực các năng lực sư phạm, tác động đến HS bằng cả nhân cách của mình).
	- GV tiểu học cần được đào tạo công phu với tính chuyên nghiệp cao, vì ở tiểu học mỗi GV có vai trò, vị trí như là người đại diện toàn quyền của nhà truờng dạy dỗ giáo dục HS theo mục tiêu giáo dục, họ thường một mình một lớp dạy tất cả các môn học và tổ chức cho HS thực hiện các hoạt động giáo dục. GV chuyên trách dạy các môn như Thể dục, Hát nhac, Ngoại ngữ thì những GV này cũng có chức năng, nhiệm vụ như một GV tiểu học thực thụ.
Nghề dạy học ở tiểu học
Nghề dạy học ở tiểu học là nghề sử dụng một công nghệ chuyên biệt, đó là Công nghệ dạy học. Công nghệ dạy học được thể hiện ở ba đặc điểm chính, hay nói cách khác là nghề dạy học đáp ứng được ba tiêu chí sau:
Được chủ động tổ chức từ nhà trường và mỗi GV
Đó là lao động sư phạm được nhà trường và từng GV tổ chức thực hiện một cách chủ động, có mục tiêu, kế hoạch xác định và diễn ra tuyến tính theo thời gian (từng tiết, từng buổi, từng tuần, từng học kì và từng năm học).
Hoạt động giảng dạy của GV được tổ chức bài bản với quy trình chặt chẽ: đầu năm học GV nhận sự phân công dạy một lớp cụ thể, họ biết được đầu vào: số lượng, trình độ HS, các điều kiện, đặc biệt là mục tiêu, chương trình học tập của HS trong cả năm học.
b. Được kiểm soát một cách khoa học
	- Quản lí, đánh giá hoạt động giảng dạy của GV: hồ sơ, số sách, giáo án, thực hiện chương trình, thực hiện giờ giấc trên lớp (việc thực hiện giờ giấc của GV không chỉ nhà trường quán lí mà phụ huynh HS cũng có thể giám sát, nhận xét).
	- Quản lí đánh giá hoạt động học của HS: kết quả học tập của HS tiểu học không chỉ bằng tư duy trừu tượng thầm kín trong đầu óc của các em mà được thể hiện một cách tường minh dưới dạng ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết (đọc, viết, tính toán) và qua hành vi cử chỉ, quan hệ giao tiếp với mọi người.
Kết quả học tập của HS được đánh giá bằng định lượng (điểm số) và định tính (nhận xét của GV, của chính HS, của các bậc cha mẹ).
Kết quả học tập của HS được đánh giá thường xuyên qua từng tiết học, buổi học, đánh giá định kì và cuối năm học.
Kết quả học tập của HS không chỉ do GV có thể đánh giá mà chính các em cũng tự đánh giá được (khi có sự hướng dẫn) và các bậc cha mẹ cũng có thể nhận biết qua kết quả đọc, viết, tính toán, qua kĩ năng sống và qua tinh thần, thái độ học tập của con em.
c. Được chuyển giao
Trường sư phạm đào tạo GV tiểu học chính là nơi chuyển giao công nghệ dạy học, cho dù đó là công nghệ 5 bước lên lớp hay công nghệ mới (công nghệ theo Hồ Ngọc Đại) cũng như những đối mới xuất phát từ những công nghệ đó. Tất cả đều đáp ứng nhu cầu:
	- Chuyển giao từ thế hệ trước sang thế hệ sau.
	- Chuyển giao từ GV này sang GV khác.
	- Có thể trao đổi, học tập lẫn nhau.
Công nghệ dạy học, nhìn tổng thể, có thể diễn đạt như ở Bảng 1.
Trong Bảng 1, khối I (cột I) chỉ ra các yếu tổ đầu vào cơ bản, bao gồm (1.1) là Con người với các nhân vật như 1.1. HS - nhân vật trung tâm của nhà trường (vì HS là mục tiêu giáo dục); 1.2. GV - người giữ vị trí then chốt, quyết định sự thành bại của giáo dục; 1.3. Các nhân vật thú ba, trước hết là các bậc cha mẹ, các tổ chức xã hội, các doanh nhân. Yếu tổ (1.2) là Mục tiêu giáo dục, được cụ thể hoá thành các chuẩn mục (chuẩn kiến thức, kĩ năng các môn học và yêu cầu tối thiểu về các hoạt động giáo dục), thành chương trình, xách giáo khoa và các tài liệu học tập khác. Yếu tổ thứ ba (1.3) là cơ sở vật chất thiết bị, gồm phòng học, bàn ghế, sân chơi bãi tập, thư viện, các đồ dùng thiết bị phục vụ cho hoạt động giảng dạy của GV và hoạt động học tập của HS. Yếu tổ thứ tư (1.4) là các điều kiện khác đáp ứng nhu cầu dạy và học như tài chính, như khuôn viên nhà trường xanh - sạch - đẹp, như 3 môi truờng giáo dục cần lành mạnh (nhà trường, gia đình, xã hội).
Các yếu tổ nêu trên có yếu tổ tham gia trực tiếp vào quá trình giảng dạy của GV và học tập của HS (các chủ thể chính), có yếu tổ tham gia gián tiếp nhưng không kém phần quan trọng như cơ sở vật chất thiết bị, các bậc cha mẹ, các nhà quán lí giáo dục.
Bảng 1
I. Đầu vào
(I.I)
(II) Quá trình dạy và học
(II.1)
III. Đầu ra
1. Con người
1.1. Họcsinh
1.2. GV
1.3. Cha mẹ và các nhân vật thứ ba khác
2. Mục tiêu - chương trình, sách giáo khoa- tài liệu
Cơ sở vật chất - thiết bị
Các điều kiện khác (tài chính, môi trường giáo dục
Bộ tiêu chuẩn đầu vào
GV tổ chức - HS hoạt động
Thầy thiết kế- Trò thi công
Bộ tiêu chuẩn đầu ra
Sản phẩm giáo dục = Mục tiêu giáo dục cụ thể được hiện thực hoá ở từng HS.
3, Đổi mới phương pháp dạy học (dạy học phù hợp nội dung và đặc điểm tâm sinh lí HS)
Quan niệm về đổi mới phương pháp: áp dụng phù hợp với nội dung (mục đích - yêu cầu), với điều kiện và đặc điểm tâm sinh lí HS.
Cấp tiểu học là cấp học của kĩ năng trên cơ sở có lí thuyết, mà phần lí thuyết lại nằm chủ yếu ở GV, là tính lí thuyết ẩn chứa trong kĩ năng của HS, chỉ phần nào được HS ý thức và diễn ra được bằng ngôn ngữ. Chính vì thế mà phương pháp học tập chủ đạo, đặc trưng của HS tiểu học là Học - Tập, theo đó là phương pháp dạy của GV: dạy trẻ kiến thức rồi hình thành kĩ năng, rồi sử dụng kĩ năng để học tập tiếp nhằm có kiến thức và kĩ năng mới, cũng chính là để lĩnh hội phương pháp học tập, để tập tìm tòi, khám phá cái mới.
* Dạy trẻ học và tập, tập để học
Quá trình học tập của HS được bắt đầu từ việc nhận thức nhiệm vụ học tập (việc học), nghĩa là biết được mục đích học (từng đơn vị nội dung), sau đó là quá trình thực hiện theo quy trình cụ thể nêu một cách đơn giản, quy trình đó là:
	- GV làm mẫu hoặc hướng dẫn mẫu làm ra sản phẩm học tập (như đọc, viết, làm toán).
	- HS làm theo quy trình mẫu để có kết quả cụ thể như sản phẩm mẫu.
	- HS luyện tập bằng cách thực hiện việc khác theo quy trình mẫu để hình thành kĩ năng thực hiện việc học.
	- HS tự mình tìm cách thực hiện những việc học tương tự theo cách riêng (sáng tạo), nếu làm được sản phẩm đúng thì các em sẽ tự tin hơn, sẽ có tính độc lập và sáng tạo trong học tập, nếu không đúng thì thực hiện theo cách được GV hướng dẫn để đảm bảo đạt yêu cầu tối thiểu.
Quy trình nêu trên thể hiện quá trình chuyển vào trong những hành động học tập bên ngoài, hay gọi là quá trình nhập tâm, sau đó HS lại chuyển ra ngoài dưới dạng những sản phẩm học tập để người khác có thể nhận biết được. Quá trình học tập và kết quả học tập của mỗi HS tiểu học thường là tường minh và là thật.
Kiểm soảtr đánh gũi kết quả học tập của học smh tiểu học
HS học được gì sẽ đọng lại bên trong trí óc và hiện hình ra ngoài (chuyển ra ngoài có thể thấy được, kiểm soát được ở những sản phẩm cụ thể: đọc, viết, làm toán,...).
Việc đánh giá kết quả học tập của HS tiểu học khá dễ dàng và tường minh, GV có thể đánh giá thường xuyên, HS có thể tự đánh giá khi được GV hướng dẫn, các bậc cha mẹ quan tâm và có trình độ nhất định cũng có thể kiểm tra kết quả học tập của con em mình. Chính vì vậy mà việc tổ chức các kì thi đối với HS tiểu học như thi tốt nghiệp đã được bỏ từ năm học 2002 - 2003.
Sự nhầm lẫn trong quá trình học tập kinh nghiệm
Trong thực tiễn dạy học thường xảy ra tình trạng GV áp dụng kiểu cách dạy học của GV khác (kể cả trong phạm vi rộng hơn là giáo dục và quản lí giáo dục) một cách xơ cứng, máy móc không đem lại kết quả như mong muốn. Việc làm đó không phải là học tập kinh nghiệm mà theo dân dã có thể gọi là "bắt chước". Sự bắt chước và học tập kinh nghiệm trong giáo dục khác nhau về bản chất và có thể chỉ ra như ở Bảng 2. có thể nhận diện về sự khác biệt đó qua một vài ví dụ sau.
Ví dụ: Việc áp dụng phương pháp tổ chức cho HS "Học theo nhóm" và "Sử dụng phiếu học tập". Do không được nghiên cứu thấu đáo cả về lí thuyết và thực tiễn đã đưa ra ứng dụng, tạo khó khăn cho GV và HS, dẫn tới kết quả dạy và học cũng không được như ý định. Cụ thể:
	Do bị nhận xét, đánh giá xếp loại tiết dạy theo tinh thần "đổi mới" với tiêu chí là phải có phiếu học tập nên có nhiều trường ở vùng núi, vùng sâu, vùng xa chưa có điện mà GV phải ngồi viết dưới đèn dầu cho mỗi HS một "phiếu học tập" - có phiếu nhưng hiệu quả đem lại chẳng được bao nhiêu.
Bảng 2
Bắt chước
Học tập kinh nghiệm
- Chưa có sự nghiên cứu về cơ sở lí luận và thực tiễn của "kinh nghiệm, sáng kiến".
- Làm theo (vận dụng) một cách rập khuôn, hình thức kiểu "thử và sai", thường không phù hợp với thực tế của trường mình.
- Thiếu sáng tạo, thiếu hiệu quả, nhiều khi gây phiền hà, thất thiệt.
- Có sự nghiên cứu, chọn lọc trên cơ sở khoa học.
- Vận dụng theo tiến trình từ thử nghiệm diện hẹp đến áp dụng trên diện rộng.
- Đem lại kết quả tốt, có lợi ích, có kế thừa và phát triển.
	- Do hiểu một cách máy móc, coi đổi mới phương pháp dạy học là phải tổ chức cho HS học nhóm nên trong một số tiết dạy của GV (thường là khi có người đến dự giờ thăm lớp) đã vận dụng một cách máy móc, cụ thể như khi dạy bài "Loài vật sống ở đâu" (Bài 27 Tự nhiên và Xã hội 2) GV đã chia nhóm theo cách HS ngồi 2 bàn gần nhau các em bàn trước quay về phía sau tạo thành nhóm để cùng thảo luận và trả lời câu hỏi được GV giao cho (mỗi nhóm 1 câu hỏi, hoặc là tìm loài vật sống trên mặt đất, hoặc là loài vật bay lượn trên không, hoặc là loài vật sống dưới nước được vẽ trên hai trang 56 và 57 sách Tự nhiên và Xã hội 2). HS từng nhóm làm việc vui vẻ đến khi GV yêu cầu mỗi nhóm cử một đại diện nói cho cả lớp nghe, trong khi các nhóm chưa kịp trình bày hết thì trống đã điểm, tiết học phải kết thức. Thực tế cho thấy mỗi nhóm HS chỉ tìm hiểu được một phần của bài học, còn yêu cầu tối thiểu về kiến thức và kĩ năng của bài học vẫn nằm ở hai trang sách và trong giáo án của GV.
Nhận thức về đổi mới phương pháp dạy học là một quá trình, cho đến nay thì hầu hết GV cũng nhận ra rằng việc vận dựng máy móc kiểu như vừa nêu là việc làm vừa khó không chỉ đối với HS mà cũng khó đối với cả GV, quan trọng hơn là kém hiệu quả. Do vậy mà cách dạy kiểu như vừa nêu không còn được nhiều GV áp dụng.
Giải pháp sư phạm
Xử lí các yếu tổ đầu vào của công nghệ dạy học
Các cấp quán lí giáo dục và trường học tùy theo chức năng, nhiệm vụ và điều kiện của mình thực hiện việc rà soát, để nắm thực trạng đầu vào, trên cơ sở đó đề ra những việc cụ thể nhằm điều chỉnh, củng cố, bổ sung nâng cấp từng yếu tổ đầu vào. Ví dụ như:
	- Đầu vào từng lớp: ngoại trừ HS vào lớp 1 có chuẩn đầu vào là độ tuổi theo quy định còn các lớp khác thì đầu vào được nhà truờng đánh giá theo chuẩn: chuẩn theo mục tiêu cụ thể của lớp mới kết thúc để chuyển lên lớp kế tiếp. Công việc này do nhà truờng và mỗi GV thực hiện bằng biện pháp sư phạm thích hợp. Ví dụ: Đầu năm học nhà trường khảo sát trình độ HS qua một vài môn học cốt yếu như Toán, Ngữ văn. Kết quả khảo sát không công bố cho HS, cũng không căn cứ vào đó để đánh giá lại kết quả năm học trước, mà chỉ cung cấp tư liệu cho GV mới tiếp nhận HS, cùng với việc làm này cũng cần có sự bàn giao HS giữa GV cũ và GV mới. Những việc làm này nhằm mục đích giúp cho GV hiểu được HS.
	- GV dạy mỗi lớp: Hiện nay GV dạy tiểu học hầu hết đã đạt chuẩn đào tạo, nhiều GV có trình độ cao hơn (cao đẳng, đại học) nhưng trình độ tay nghề (khả năng dạy học cụ thể) thì chưa hoàn toàn tương xứng. GV là yếu tổ đầu vào không thể thay thế và giữ vai trò có tính quyết định sự thành bại của chương trình giáo dục cũng như chủ truơng của ngành giáo dục, những giải pháp của Bộ và các biện pháp cụ thể của từng địa phương, từng trường.
Việc tự học, tự bồi dưỡng thường xuyên của mỗi GV là biện pháp Cơ bản của giáo dục các cấp.
	- Về các bậc cha mẹ: Theo lẽ tự nhiên, trẻ em không được chọn cha mẹ (người sinh thành ra mình), nhà trường không được chọn các bậc phụ huynh học sinh. Các bậc cha mẹ cũng là chủ thể của nhà trường, tham gia cùng nhà truởng giáo dục con em mình trong cơ chế phân công- hợp tác. Các bậc cha mẹ xác lập môi truờng giáo dục gia đình và góp phần tạo dựng môi trường giáo dục nhà trường và xã hội. Các bậc cha mẹ có trình độ dân trí khác nhau, quan niệm và phương pháp giáo dục con cái khác nhau, điều kiện kinh tế khác nhau. Những đặc điểm này là yếu tổ tác động đến giáo dục con em như là một trong những yếu tổ đầu vào nhưng nhà truờng và ngành giáo dục chỉ có thể tác động một cách giới hạn.
Đề phát huy được tiềm lực này, nhà trường cần tận dụng khả năng và điều kiện có thể để tuyên truyền, phổ biến về quan điểm, phương pháp, môi truờng giáo dục nhằm tạo được sự đồng thuận về nhận thức và sự phối hợp hành động trong việc giáo dục HS. Nên hình thành câu lạc bộ các bậc cha mẹ chứ không chỉ dừng lại ở các cuộc họp phụ huynh HS theo thông lệ, hoạt động của câu lạc bộ nhà trường định hướng bài bản vào việc nâng cao dân trí về giáo dục.
	- Chương trình học dành cho HS: chương trình và SGK theo chuẩn kiến thức và kĩ năng do Bộ tổ chức xây dựng và quy định sử dụng dành cho HS cả nước. Việc xử lí yếu tổ đầu vào này do Bộ đảm nhiệm là chính (như việc giảm tải đang triển khai thực hiện chẳng hạn), tuy nhiên GV, tùy theo điều kiện cụ thể có thể vận dụng một cách thiết thực, làm sao vẫn đảm bảo được chuẩn quy định mà lại phù hợp với đối tượng HS và điều kiện mình có.
	- Cơ sở vật chất - thiết bị: Đến nay các trường tiểu học đang hướng tới xây dựng trường đạt chuẩn quốc gia mức độ 1 và tiễn tới mức độ 2, trong đó có tiêu chuẩn về cơ sở vật chất - thiết bị trường tiểu học với những tiêu chí cụ thể. Công việc này cần được nhà truờng và địa phương có kế hoạch cụ thể và thực hiện theo bước đi hợp lí.
	- Các điều kiện khác: Được coi như yếu tổ đầu vào trong công nghệ dạy học là một số điều kiện khác có tác động gián tiếp dưới dạng hữu hình hoặc vô hình đến hoạt động dạy và học trong nhà trường nói riêng, đến chất lượng giáo dục nói chung, như tài chính, như môi trường tự nhiên và xã hội (xây dựng ba môi trường giáo dục lành mạnh: nhà trường, gia đình, xã hội).
b. Bồi dưỡng thường xuyên
Việc bồi dưỡng thường xuyên của GV cần được các cấp quán lí giáo dục tiểu học, nhà trường quan tâm chỉ đạo, quản lí và tạo điều kiện.
Điều quan trọng nhất là việc bồi dưỡng thường xuyên phải được từng GV tự giác, tự chịu trách nhiệm trong việc thực hiện kế hoạch của mình và phải được thực hiện thường xuyên theo phương châm "Học suốt đời".
c. Kiểm tra, đánh giá
Việc kiểm tra, đánh giá hoạt động dạy của GV và hoạt động học của HS cần được tiến hành thường xuyên và đánh giá một cách tường minh, theo các chuẩn mục quy định.
Đánh giá chất lượng giáo dục tiểu học và đánh giá về sự tín nhiệm, trình độ phát triển của trường tiểu học không khó khăn vì đây là cấp học mà mọi sự việc, mọi điều kiện đều tường minh và quá trình dạy học và giáo dục đều hiện ra khá rõ ràng, khá minh bạch.
Đánh giá chất lượng giáo dục tiểu học và trường tiểu học, trước hết do GV và ban lãnh đạo, các tổ chức đoàn thể của trường và cả HS tham gia, đồng thời cũng cần có sự đánh giá của các cấp quản lí nhà truờng, của phụ huynh HS và các lực lượng xã hội khác (cũng cần có sự đồng thuận trong đánh giá).
Đánh giá nhà trường về mọi mặt, mọi phương cách song đều hướng vào mục tiêu giáo dục - kết quả học tập (theo nghĩa rộng) của HS (việc đánh giá GV và HS hiện đang có chuẩn nghề nghiệp GV và quy định, đánh giá HS).
IV. ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ
Cá nhân tự đánh giá qua thực hiện các việc sau:
Khảo sát, tìm hiểu về một số biểu hiện của GV và HS qua việc áp dụng kinh nghiệm theo hướng tích cực và tiêu cực.
Tìm hiểu việc quán lí của các cấp quán lí về hoạt động dạy của GV.
Trao đổi, thảo luận nhóm về một kinh nghiệm của GV hoặc cán bộ quán lí của trường mình hoặc của trường bạn.
Hoạt động 5: 
THỐNG NHẤT VỀ GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC
MỤC TIÊU
	- Thống nhất định hướng về đổi mới nội dung và phương pháp dạy học ở tiểu học.
	- Xây dựng được tiêu chí đánh giá đổi mới dạy học ở tiểu học.
	- Biết nhận định, đánh giá và lựa chọn phương pháp dạy học thích hợp với trường mình, lớp mình.
II. PHƯƠNG PHÁP
	- Thảo luận nhóm.
	- Khảo sát thực tiễn, giải quyết tình huống theo nhóm.
	- Thực hành.
NỘI DUNG CHÍNH
1. Về nội dung dạy học
Nội dung chương trình học tập của HS được quy định có tính pháp quy dành HS cả nước, được định rõ trong chuẩn kiến thức, kĩ năng các môn học, chương trình học các môn học và các hoạt động giáo dục- đó cũng chính là mục tiêu giáo dục cụ thể. Còn SGK và các tài liệu khác là tài liệu được cụ thể hoá theo phương pháp sư phạm của nội dung trên.
Trường tiểu học cho dù ở đô thị hay ở nông thôn, ở các trung tâm hay ở vùng sâu, vùng xa (các truờng tư thực) cũng đều là nhà trường của nhà nước, đều có tính quốc gia (quốc học) - đều đảm bảo mục tiêu giáo dục được cụ thể hoá ở chương trình học được xây dựng theo chuẩn (yêu cầu tối thiểu - phần cứng của chương trình) dành cho HS. Đề huy động, phát huy được sức sống của từng cơ sở trường học, trong chương trình học dành cho HS còn có phần mở rộng (phần mềm) - nội dung dành cho từng trường, từng địa phương được xử lí vận dụng phù hợp với điều kiện của nơi mình.
Đối mới nội dung dạy học ở tiểu học, phần Cơ bản do Bộ GD&ĐT xử lí và chỉ đạo thực hiện chung cho cả nước, như chương trình đã ban hành và mới đây là quy định về giảm tải nội dung chương trình học dành cho HS, còn từng trường, từng GV chỉ áp dụng và điểu chỉnh trong phạm vi nhất định. Bộ đã có hướng dẫn tạo cho GV có quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm và phát huy tính năng động sáng tạo trong dạy học.
2. Quan niệm về phương pháp dạy học và đối mới phương pháp dạy học
	Phương pháp dạy học theo cách hiểu thông thường là cách thức tổ chức cho HS thực hiện hoạt động học nhằm lĩnh hội nội dung học tập: kiến thức, kĩ năng và thái độ qua từng đơn vị thời gian học tập (tiết học).
Trên phạm vi rộng, có thể tìm hiểu về phương pháp dạy học truyền thống theo quy trình 5 bước lên lớp (một số nhà chuyên môn coi phương pháp này là công nghệ dạy học cũ) và phương pháp công nghệ dạy học mới. Phương pháp dạy học theo 5 bước lên lớp có lịch sử hình thành hàng trăm năm nay, qua từng giai đoạn phát triển có sự cải tiến, hoàn thiện nhưng về cơ bản vẫn theo quy trình 5 bước lên lớp:
	- Ổn định tổ chứ

Tài liệu đính kèm:

  • docModule_TH01.doc