Sáng kiến kinh nghiệm Mở rộng vốn từ cho học sinh Lớp 5 qua tiết Luyện từ và câu

Tiếng Việt ở trường Tiểu học có nhiệm vụ rất quan trọng, nó hình thành năng lực hoạt động ngôn ngữ cho học sinh, được thể hiện trong 4 hoạt động tương ứng với 4 kĩ năng: nghe - nói - đọc - viết. Đó là môn học gồm nhiều phân môn và chiếm nhiều thời gian học tập ở bậc tiểu học nói chung và lớp 5 nói riêng. Việc dạy Tiếng Việt ở trường nhằm tạo cho học sinh năng lực sử dụng Tiếng Việt, năng lực tư duy, giao tiếp, giáo dục các em những tư tưởng lành mạnh, trong sáng nhằm hình thành nhân cách học sinh.

 Trong chương trình môn Tiếng Việt ở tiểu học, Luyện từ và câu được tách thành một phân môn độc lập, có vị trí ngang bằng với các phân môn khác như Tập đọc, Chính tả, Tập làm văn. Trong đó dạng bài Mở rộng vốn từ được chú trọng với số lượng bài học khá nhiều theo từng chủ điểm. Mục tiêu dạng bài này hướng tới 3 nhiệm vụ chủ yếu là giúp học sinh phong phú hoá vốn từ, chính xác hoá vốn từ và tích cực hoá vốn từ.

 Với học sinh lớp Năm, việc mở rộng vốn từ cho các em là rất cần thiết, đó là điều kiện thuận lợi để học tốt các môn học khác ở Tiểu học và học tiếp lên các lớp trên. Việc giúp các em trau dồi vốn từ góp phần nâng cao năng lực sử dụng ngôn ngữ giúp các em rèn kĩ năng diễn đạt, giao tiếp, dùng từ đặt câu, sử dụng trong các bài tập làm văn của mình hết sức quan trọng.

 Nhằm góp phần đổi mới phương pháp và nâng cao chất lượng dạy học Tiếng Việt trong nhà trường nói chung, dạy cho học sinh lớp Năm học tốt dạng bài mở rộng vốn từ nói riêng, tôi đã chọn sáng kiến: “Biện pháp giúp học sinh Mở rộng vốn từ trong phân môn Luyện từ và câu lớp 5”.

 

doc 17 trang Người đăng hoanguyen99 Lượt xem 932Lượt tải 2 Download
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Mở rộng vốn từ cho học sinh Lớp 5 qua tiết Luyện từ và câu", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
kiến chỉ giới hạn trong phạm vi nghiên cứu việc dạy học dạng bài văn mở rộng vốn từ cho học sinh lớp Năm và áp dụng ở trường Tiểu học tôi đang công tác. Nghiên cứu đề tài, tôi không có nhiều tham vọng mà chỉ nhằm mục đích đóng góp một phần công sức của mình vào công tác giáo dục của nhà trường. Với việc nghiên cứu đề tài, tôi mong muốn sẽ có được những giải pháp hữu hiệu, bài học kinh nghiệm để có thể áp dụng vào thực tiễn giảng dạy phân môn Luyện từ và câu ở trường nói riêng và ngành giáo dục huyện nhà nói chung. Điều này càng có ý nghĩa nếu đề tài thành công, đồng thời là chất lượng học tập của các em học sinh cũng sẽ được nâng lên một cách đáng kể. Trên cơ sở kiến thức, kĩ năng về vốn từ ngữ đã được học, các em vận dụng tốt ở các lớp trên.
PHẦN II: PHẦN NỘI DUNG
I. Thực trạng việc dạy và học giúp học sinh mở rộng vốn từ:
 1. Thực trạng việc dạy của giáo viên: 
 Trong phong trào thi đua dạy tốt học tốt, đa số giáo viên hưởng ứng mạnh mẽ đổi mới phương pháp, chất lượng dạy học đảm bảo. Tuy nhiên việc dạy mở rộng vốn từ cho học sinh giáo viên còn có những hạn chế sau: 
 + Vốn từ ngữ của một số giáo viên chưa phong phú, chưa đáp ứng được yêu cầu hướng dẫn học sinh mở rộng vốn từ, phát triển vốn từ. Đa số giáo viên còn lúng túng giải thích nghĩa của từ nên việc hướng dẫn học sinh tập giải nghĩa từ, làm bài tập giải nghĩa từ cũng chưa đạt hiệu quả cao. Kiến thức về từ vựng - ngữ nghĩa học của một số giáo viên còn hạn chế, nên bộc lộ những sơ suất, sai sót về kiến thức.
 + Cách dạy của nhiều giáo viên trong giờ luyện từ và câu còn đơn điệu, lệ thuộc một cách máy móc vào sách giáo viên, ít sáng tạo, chưa sinh động, chưa cuốn hút được học sinh. Giáo viên phối hợp các phương pháp pháp chưa linh hoạt; giờ học còn khô khan chưa gây hứng thú cho học sinh
 + Các tài liệu tham khảo phục vụ việc giảng dạy Luyện từ và câu cũng như tranh ảnh, vật chất và các đồ dùng dạy học khác chưa được giáo viên chú trọng sưu tầm, khai thác có hiệu quả.
2. Thực trạng việc học của học sinh: 
 + Học sinh ít hứng thú học phân môn này. Hầu hết các em được hỏi ý kiến đều cho rằng: Luyện từ và câu là một môn học khó. Một số chủ đề còn trừu tượng, khó hiểu, ít gần gũi quen thuộc với các em. Bên cạnh đó, cách miêu tả, giải thích nghĩa một số từ trong sách giáo khoa còn mang tính chất ngôn ngữ học, chưa phù hợp với lối tư duy trực quan của các em. Học sinh trong giờ học còn trầm, chưa hăng say phát biểu xây dựng bài, nhiều em còn thụ động, hạn chế về vốn từĐiều này gây tâm lý mệt mỏi, ngại học phân môn Luyện từ và câu đối với học sinh. Các em còn nhiều hạn chế về năng lực giao tiếp, thiếu mạnh dạn tự tin, còn rụt rè khi bày tỏ ý kiến...một phần do còn nghèo từ, ít chú trọng đến kĩ năng diễn đạt.
3. Số liệu thống kê:	
 Qua điều tra khảo sát chất lượng học sinh ngay từ đầu năm học tôi đều thấy số lượng học sinh nắm được vốn từ chưa cao. Cụ thể điều tra chất lượng về mở rộng vốn từ của học sinh lớp 5A đầu năm học 2014 - 2015 này, tôi có số liệu cụ thể như sau:
Sĩ số
Hệ thống và phân loại vốn từ
Kỹ năng sử dụng từ
Nắm nghĩa của từ
SL
%
SL
%
SL
%
24
13
54.2
15
62.5
12
50.0
II. Một số biện pháp giúp học sinh Mở rộng vốn từ ở lớp 5:
Biện pháp 1: Giáo viên cần nắm bắt nội dung cũng như mức độ yêu cầu về mở rộng vốn từ có trong chương trình tiểu học.
 Như chúng ta biết, Tiếng việt được xây dựng mang tính đồng tâm, kế thừa theo từng mạch kiến thức từ các lớp dưới. Để giúp việc dạy học mở rộng vốn từ có hiệu quả đòi hỏi người giáo viên phải hệ thống được nội dung về phần kiến thức này có trong chương trình Tiểu học cũng như chuẩn kiến thức kĩ năng cần đạt ở các lớp dưới và lớp mình đang dạy. Có như vậy người giáo viên biết được học sinh đã học được những gì, mở rộng vốn từ đến mức độ nào. Điều này rất thuận lợi cho việc hướng dẫn học sinh giải quyết các bài tập. 
 VD: Từ trái nghĩa, từ đồng nghĩa các em đã được học từ lớp 2,3,4; các từ nói về phẩm chất con người như: dũng cảm, gan dạ, siêng năng...các em học ở lớp 2 ( từ chỉ đặc điểm).... 
Biện pháp 2: Mở rộng vốn từ cho học sinh thông qua các dạng bài tập:
 1. Mở rộng vốn từ qua quan sát tranh (nối từ cho sẵn với hình vẽ tương ứng, dựa vào tranh tìm từ tương ứng...)
 Đối với những dạng bài tập này, giáo viên cần biết khai thác triệt để kênh hình ở sách giáo khoa, hình ảnh giáo viên và học sinh sưu tầm được để phục vụ cho tiết dạy. Giáo viên có thể thiết kế các nội dung này trên máy chiếu để giúp học sinh quan sát, như thế vừa không mất thời gian gắn tranh, tìm tranh, tiện lợi lại vừa có thể sử dụng trong nhiều năm. Việc ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy giúp tôi đưa các hình ảnh tư liệu phục vụ cho bài giảng có hiệu quả rõ rệt, giáo viên có nhiều thời gian quan tâm đến các đối tượng học sinh. 
 Ví dụ: Khi dạy bài “Mở rộng vốn từ: Bảo vệ môi trường” (TV 5 tập 1,tuần 13 – chủ điểm “Giữ lấy màu xanh”), giáo viên sưu tầm các hình ảnh về các loài động vật, thực vật, các loài bò sát vào bài giảng và giới thiệu cho học sinh biết về sự đa dạng của “khu bảo tồn đa dạng sinh học” nơi đó có các loài vật như: hổ, báo, gấu, chim, ếch, nháiQua đó, học sinh nhận biết được những gì mình đã quan sát vừa gần gũi vừa xa lạ với cuộc sống các em. Vì thế, các em có cơ hội tiếp xúc với thế giới xung quanh làm tăng sự nhạy bén, óc quan sát và trí tưởng tượng phong phúHoặc bài “Mở rộng vốn từ: “Trật tự -an ninh”(TV 5 tập 2, Tuần 24 – chủ điểm “Vì cuộc sống thanh bình”), giáo viên sưu tầm các đoạn phim nói về các hoạt động trật tự - an ninh và các hình ảnh về những công việc liên quan đến bài tập 3 như: công an, đồn biên phòng, tòa án, từ đó các em sẽ làm được các câu hỏi ở bài tập 2 và 3 (SGK trang 59).
 Đối với một số dạng bài tập dạy nhận diện từ (từ đồng nghĩa, từ trái nghĩa) cũng có thể sử dụng tranh ảnh. Học sinh khi nhìn vào hình ảnh có thể đoán được hoạt động đó là gì? Nhưng có những hoạt động học sinh trung bình và học sinh yếu không có khả năng tìm được từ chỉ hoạt động tương ứng, giáo viên phải có những câu hỏi gợi ý:
 Ví dụ: Ở bài “Từ trái nghĩa” (TV 5 tập 1, tuần 4 – chủ điểm: “cánh chim hòa bình”). Trong bài tập 3, tìm từ trái nghĩa với mỗi từ sau: hòa bình, thương yêu, đoàn kết, giữ gìn. Giáo viên giới thiệu một số biểu tượng hoặc hình ảnh thể hiện rõ ý nghĩa các từ đã cho, giáo viên có thể hướng dẫn học sinh trung bình, yếu bằng các câu hỏi gợi ý: - Bức tranh trên ứng với từ nào trong 4 từ đã cho? Ý nghĩa của các từ đó?
 Từ việc hiểu ra nghĩa từ đã cho ta tìm được từ trái nghĩa. Với học sinh chậm tiếp thu giáo viên có thể trưng bày một số bức tranh phản diện để học sinh phát hiện ra từ cần tìm và hiểu nghĩa của nó. Giáo viên có thể giải thích thêm cho học sinh hiểu một số từ khó bằng hình ảnh, bằng đặt câu hoặc giải thích bằng lờiĐối với học sinh tiếp thu nhanh giáo viên có thể kiểm tra thêm bằng cách đưa ra một số từ mới, yêu cầu học sinh dựa vào bài đã học ở tiết trước (từ đồng nghĩa) để làm bài tập sau:
Ví dụ: Tìm từ đồng nghĩa và trái nghĩa trong các từ sau: nhân hậu, trung thực, dũng cảm
 Từ
Đồng nghĩa
Trái nghĩa
Nhân hậu
Phúc hậu, nhân đức, nhân ái
Bạc ác, thất đức, ác đức
Trung thực
Thật thà, ngay thẳng, chân thật
Gian dối, lừa dối, dối trá
Dũng cảm
Anh dũng, gan dạ, kiên cường
Hèn nhát, nhát gan
	Sau khi cho học sinh tìm từ và giải nghĩa giáo viên nên chốt lại những ý đúng, giải nghĩa từ để tăng thêm vốn từ vựng cho học sinh.
 2. Mở rộng vốn từ theo quan hệ ngữ nghĩa: (“Tìm từ ngữ cùng chủ điểm”, “Tìm từ cùng nghĩa, gần nghĩa hoặc trái nghĩa với từ cho sẵn”)
 Khi dạy dạng bài tập này, giáo viên có thể tổ chức cho học sinh hoạt động nhóm thi tìm từ tiếp sức, tìm bạn đồng hành. Nếu từ cho sẵn có nghĩa trừu tượng, khó nhận biết, để trợ giúp hoạt động tìm từ của học sinh, giáo viên giải thích nghĩa của từ cho sẵn và nêu một số ngữ cảnh điển hình, trong đó có sử dụng từ cho sẵn ấy.
 Ví dụ: Tìm từ trái nghĩa với mỗi từ sau: trẻ con, xuất hiện, cuối cùng, bình tĩnh.
 Đối với bài tập này, tìm từ trái nghĩa với từ “bình tĩnh” học sinh khó nhận biết, giáo viên hướng dẫn học sinh bằng cách giải thích nghĩa của từ “bình tĩnh” thông qua ví dụ (“bình tĩnh” có nghĩa là: làm chủ bản thân trước khó khăn bất ngờ xảy đến). Sau đó, lấy ví dụ bằng cách đặt câu: Sau mấy phút hoảng hốt, bạn ấy bình tĩnh lại. Từ đó học sinh dễ dàng hiểu nghĩa của từ và tìm từ. (Ví dụ: trái nghĩa với từ “bình tĩnh” là “cuống quýt, luống cuống, hốt hoảng”). Những từ còn lại cho học sinh làm tương tự.
 Tổ chức cho học sinh hoạt động nhóm thi kể tiếp sức tìm từ theo chủ điểm.
 Ví dụ: Thi tìm từ nhanh theo chủ điểm đưa ra: tìm từ nói về chủ điểm hòa bình, hạnh phúc .( Sử dụng trong các tiết ôn tập giữa kì, cuối kì)
 3. Mở rộng vốn từ theo quan hệ cấu tạo từ (tìm thêm từ mới, ghép nghĩa của từ với cụm từ thích hợp):
 Dựa vào một yếu tố cấu tạo từ cho sẵn, tìm những từ có liên quan đến từ đã cho. Dạng bài tập này có tác dụng rất lớn trong việc giúp học sinh phát triển, mở rộng vốn từ. Trong các tiết có những loại bài tập này, người giáo viên có thể thiết kế một số trò chơi giúp học sinh mở rộng vốn từ: trò chơi tiếp sức tìm từ, tìm bạn đồng hành, tìm tiếng trung tâm,
 Ví dụ: Thảo luận nhóm: Thi ai nhanh tay nhanh mắt : Giáo viên dán lên bảng 2 bảng phụ ghi bài tập 2 (Mở rộng vốn từ: Công dân, TV 5 tập 2, tuần 21 – chủ điểm “Người công dân”), giáo viên làm sẵn 3 mũi tên sau đó chia lớp làm 2 nhóm để chơi.
 Cách chơi: Sau khi giáo viên đếm (3, 2, 1) học sinh 2 nhóm thay nhau lên ghép làm sao cho từ có nghĩa. Mỗi bạn trong nhóm tối đa một lần, nhóm nào phạm lỗi bị trừ điểm, nhóm nào nhanh sẽ đàn phần thắng.
 Ví dụ: Trò chơi: Ai nhanh, ai khéo: Giáo viên chia lớp làm 3 nhóm, mỗi nhóm được phát một tờ giấy Ao và một ngòi bút dạ làm bài tập 2 (Mở rộng vốn từ: Trật tự - an ninh, TV 5 tập 2, tuần 23 – chủ điểm “Vì cuộc sống thanh bình”)
 Cách chơi: Trò chơi trong vòng 5 phút, đội nào viết nhanh, tìm nhiều từ đúng, trình bày đẹp lên gián trên bảng trước đội đó sẽ dành phần thắng.
 Ví dụ : Trò chơi: Thi tìm từ trung tâm: Ở bài “Từ đồng âm” (TV 5 tập 1, tuần 5 – chủ điểm “Cánh chim hòa bình”) Giáo viên có thể chuẩn bị trước hai bông hoa có vẽ cánh và nhụy hoa. Phần cánh hoa có các từ cho sẵn, yêu cầu học sinh tìm từ đồng nghĩa (viết vào phần nhụy hoa)
 Cách chơi: Giáo viên cho học sinh hoạt động cá nhân. Ví dụ: Các cánh hoa viết: cái bàn, bàn bạc trao đổithì nhụy hoa là tiếng gì nào? (bàn). Giáo viên gọi học sinh trả lời theo hình thức xung phong phát biểu.
Biện pháp 3 : Mở rộng vốn từ bằng cách phát huy tính tích cực của học sinh 
 Đổi mới phương pháp dạy học là phải phát huy tính tích cực của học sinh giáo viên cần chú ý phân ra theo nhóm đối tượng tùy theo mức độ để có phương pháp dạy thích hợp. Muốn phát huy được tính tích cực của học sinh người giáo viên phải có hệ thống câu hỏi trong mỗi bài thật cụ thể phù hợp với mọi đối tượng học sinh. 
 Ví dụ : Khi dạy bài ‘Mở rộng vốn từ : Thiên nhiên’ (TV 5 tập 1,tuần 9 – chủ điểm ‘con người với thiên nhiên’)
 - Bài tập 1 : Đọc mẫu chuyện Bầu trời mùa thu và tìm những từ ngữ tả bầu trời....
 Từ bài tập trên học sinh xác định: những từ ngữ tả bầu trời trong mẫu chuyện, những từ ngữ thể hiện sự so sánh, những từ thể hiện sự nhân hóa của bầu trời.
 - Những từ ngữ tả bầu trời:rất nóng và cháy lên những tia sáng của ngọn lửa; xanh như mặt nước mệt mỏi trong ao; được rửa mặt sau cơn mưa; xanh biếc; dịu dàng; buồn bã; trầm ngâm; ghé sát mặt đất
 - Những từ ngữ thể hiện sự so sánh: xanh như mặt nước mệt mỏi trong ao
 - Những từ ngữ thể hiện sự nhân hóa bầu trời: được rửa mặt sau cơn mưa; dịu dàng; buồn bã; trầm ngâm; nhớ đến; ghé sát mặt đất; cúi xuống lắng nghe để tìm thêm
 Giáo viên có thể đặt câu hỏi: Hằng ngày em thấy bầu trời thế nào? Em thấy vào ban ngày và ban đêm bầu trời có gì khác nhau không?... Hay giáo viên có thể chia lớp làm các nhóm nhỏ. Gọi nhóm đại diện đóng vai người hỏi và người trả lời về đề tài “Thiên nhiên”. Các nhóm khác quan sát, nhận xét và đưa ra tình huống ứng xử.
 * Chú ý: Đến mọi đối tượng học sinh trong giờ học sinh trong giờ học để cho các em được nói, được làm việc. 
 Ví dụ: Với bài học: “Từ trái nghĩa”
 Khi dạy loại bài này, tôi dùng bài thơ sau để giúp học sinh nhận biết từ trái nghĩa.
Dòng sông bên lở bên bồi
Bên lở thì đục bên bồi thì trong
Khôn nhà dại chợ long đong
Việc này hẳn có tay trong tay ngoài
Lươn ngắn lại chê trạch dài
Vụng chèo khéo chống khen ai vững vàng
Vào sinh ra tử gian nan
Ăn không nói có làm càn chớ nên
Xấu người đẹp nết là hơn
Đầu đuôi kể rõ dưới trên ngọn ngành
Trống xuôi kèn ngược sao đành
Áo rách khéo vá hơn lành vụng may
 Muốn tìm được cặp từ trái nghĩa, trước các cặp từ còn đang “Nghi vấn”, học sinh cần trả lời 2 câu hỏi nhỏ sau: thứ nhất “nghĩa của 2 từ trong mỗi câu thơ có đối lập nhau không, trái ngược nhau không?”, thứ hai : “cơ sở chung của sự đối lập về nghĩa của 2 từ là gì ?”. Trả lời được 2 câu hỏi trên, học sinh đã xác định có cơ sở chắc chắn về từ trái nghĩa. Cuối tiết 2, củng cố kiến thức bằng cách tổ chức thi sử dụng từ trái nghĩa dưới dạng 2 loại bài tập sau:
 Loại bài tập 1: Điền từ trái nghĩa vào chỗ trống trong từng câu thơ sau:
Yếu trâu còn hơn ............bò (khoẻ)
Có bé lại xé ra ............đáng buồn (to)
Lành làm gáo,...........làm muôi (vỡ)
Ở ....người cười, ở hẹp người che (rộng)
	 Loại bài tập 2: Đặt câu với cặp từ trái nghĩa.
	* Ví dụ: Đặt câu với cặp từ béo - gầy.
	Ở dạng bài tập điền từ, học sinh cần được dựa vào từ cho sẵn (từ in đậm trong câu thơ), coi đó là từ “điểm tựa” để tìm từ có nghĩa trái ngược, tạo nên một cặp từ trái nghĩa hoàn chỉnh. Còn ở dạng bài tập đặt câu, học sinh cần căn cứ vào đặc trưng về nghĩa của cặp từ trái nghĩa đó để đặt câu có nội dung thích hợp.
 Biện pháp 4: Mở rộng vốn từ cho học sinh trong tất cả các môn học:
 1. Mở rộng vốn từ cho học sinh qua các phân môn Tiếng Việt
 Với các phân môn Tiếng Việt như Tập đọc, Chính tả, Tập làm văn giúp học sinh rất nhiều trong việc mở rộng vốn từ, cách dùng từ để đặt câu khác nhau, từ phải gắn với câu, sắp xếp từ ý cho đúng văn cảnh, cụ thể:
 - Tập đọc:
 Tập đọc với tư cách là một phân môn của Tiếng Việt có nhiệm vụ hình thành và phát triển một cách có hệ thống và có kế hoạch năng lực cho học học sinh. Thông qua môn tập đọc giúp học sinh mở rộng,hệ thống hoá vốn từ, cung cấp cho học sinh một số hiểu biết về từ và câu, bồi dưỡng cho học sinh thói quen dùng từ đúng, nói và viết thành câu.
 Ví dụ: Khi học bài Thái sư Trần Thủ Độ (TV5 tập 2, tuần 20 – chủ điểm “Người công dân”), học sinh hiểu được nghĩa các từ: thái sư, chuyên quyền, câu đương, thượng phụ...Bài tập đọc Mùa thảo quả giúp các em biết về: thảo quả, lướt thướt, nhấp nháy...
Có thể nói thông qua phân môn tập đọc học sinh được mở rộng vốn từ rất phong phú, góp phần không nhỏ vào vốn từ của các em. Không những thế, học sinhcó cơ hội sử dụng tích cực hóa vốn từ của mình, từ đó đọc lưu loát và thông hiểu văn bản. 
- Chính tả:
Nội dung và yêu cầu chính tả trong tiết học luôn bám sát nội dung ở sách giáo khoa. Qua phân môn này, học sinh biết sử dụng các dấu câu, các cặp quan hệ từ, kỹ năng dùng từ, đặt câu để áp dụng vào việc làm bài tập và thông hiểu các câu – từ trong bài luyện viết. 
 Ví dụ: Với bài Nghe – viết Dòng kinh quê hương. Luyện tập đánh dấu thanh (có tiếng chứa iê / ia) (TV 5 tập 1, tuần 7 – chủ điểm “Con người với thiên nhiên”). Thông qua bài này giúp học sinh có vốn từ phong phú, hiểu biết thêm về cách dùng câu, đặt câu, sử dụng quan hệ từ, đánh dấu thanh (iê / ia).
 - Tập làm văn:
 Trong tiếng Việt, phân môn Tập làm văn mang tính thực hành cao, mang tính tổng hợp, nó có vai trò rèn cho học sinh cả bốn kĩ năng, trong đó quan trọng là các kĩ năng nghe, nói, viết. Đối với phân môn này, các em được rèn luyện năng lực trình bày ở dạng văn bản. Tập làm văn đòi hỏi phải có một vốn từ phong phú mới có thể viết bài tốt. Thế giới quanh ta rất phong phú, đa dạng và không ngừng biến đổi. Người viết văn không thể “vẽ” được một cảnh, một người nếu bản thân người ấy thiếu vốn từ, vốn sống. Giúp cho các em nắm một số từ gợi tả để có thể dùng trong miêu tả, nắm những tình tiết trong bài văn kể chuyện đó là làm giàu vốn từ cho học sinh. 
 Ví dụ: Khi học bài Kể chuyện (kiểm tra viết) (TV 5 tập 2, tuần 22 – chủ điểm “vì cuộc sống thanh bình”). Trong kiến thức chương trình SGK có ba đề tài yêu cầu học sinh phải chọn, hoặc giáo viên có thể đưa ra một số đề bài phù hợp với tình hình lớp học. Qua bài văn viết này, học sinh như được củng cố các kiến thức cũ đã học về dấu câu, từ vựng, từ loại, đặt đoạn vănmà đặc biệt làm tăng vốn từ cho học sinh. Nhờ vào đó, người giáo viên có thể đánh giá được một cách chính xác vốn từ học sinh để tìm ra các biện pháp khắc phục. Đồng thời, khi trả bài giáo viên phải chú ý sửa lỗi cách dùng từ, khả năng diễn đạt, trau dồi vốn từ học sinh.
 - Kể chuyện:
Kể chuyện ở lớp 5 gắn bó chặt chẽ với phân môn Luyên từ và câu. Thông qua kể chuyện học sinh phong phú về vốn từ để có thể kể câu chuyện được lưu loát, từ vựng - ngôn ngữ trong sáng, biết xâu chuỗi các tình tiết câu chuyện rành mạch, rõ ràng giúp các em thêm tự tin trong giao tiếp.
 Ví dụ: Với bài kể chuyện Vì muôn dân (TV 5 tập 2, tuần 25 – chủ điểm “Nhớ nguồn”). Dựa vào các bức tranh trong sách giáo khoa và lời kể của cô giáo, học sinh có thể kể lại toàn bộ câu chuyện. Thông qua đây học sinh có thể biết sử dụng từ ngữ, câu văn một cách khéo léo và lưu loát để diễn tả được nội dung câu chuyện.
 2. Mở rộng vốn từ qua các môn khác
 Cũng như các phân môn khác của Tiếng Việt một trong những nhiệm vụ của phân môn luyện từ và câu là bồi dưỡng ý thức và thói quen sử dụng tiếng việt văn hoá. Để thực hiện nhiệm vụ đó không chỉ bó gọn trong việc tổ chức cá hoạt động dạy và học trong các tiết của phân môn mà còn cả trong việc học tập của các môn học khác.
 - Môn Đạo đức:
 Môn học này cung cấp những mẫu hành vi và giúp học sinh biết xử lý các tình huống, bày tỏ ý kiến, học sinh có thể học hỏi và trau dồi lối sống của mình. Với những bài học, những kinh nghiệm trong xã hội để giúp học sinh bước đầu hòa nhịp với cuộc sống và hoàn thiện nhân cách của mình.
Ví dụ: Bài 2: “Biết nhận lỗi và sửa lỗi”, với nội dung câu chuyện “Ai ngoan sẽ được thưởng”. Qua đây, học sinh đọc được nội dung và hiểu được ý nghĩa của chuyện thông qua các câu, từ, quan hệ từ, các dấu câukhả năng diễn đạt tốt.
 - Môn Toán:
 Toán là môn học với những con số, phép tính, những quy tắc, những bài giải cần học sinh hiểu và làm chính xácĐây là môn yêu cầu cần hiểu và sử dụng diễn đạt câu, từ chính xác. Đặc biệt, đối với các bài toán giải có lời văn cần yêu cầu học sinh sử dụng đúng câu từ khi đặt lời giải, tránh sự lủng củng, từ khó hiểu.
 - Các hoạt động ngoài giờ lên lớp: 
 Các hoạt động ngoài giờ lên lớp ( Thi Chúng em kể chuyện Bác Hồ, Chương trình Thắp sáng ước mơ, tuyên truyền về an ninh trật tự, các buổi chào cờ, ngoại khóa, hòm thư chia sẻ...) góp phần tích luỹ vốn hiểu biết, vốn từ ngữ cho học sinh, rèn kĩ năng sử dụng ngôn ngữ mà các em tích lũy được. Phối kết hợp hoạt động ngoài giờ nhằm bồi dưỡng cho học sinh ý thức và thói quen sử dụng tiếng việt văn hoá trong giao tiếp, các em có thói quen dùng từ đúng, nói viết thành câu, biết quý trọng và giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt. Đây là “phương tiện” giúp học sinh mở rộng và tích cực hóa vốn từ vô cùng hiệu quả. 
Biện pháp 5: Đổi mới PPDH, vận dụng mô hình VNEN: 
 Dạy học theo hướng đổi mới phương pháp, linh hoạt trong quả trình tổ chức các hoạt động theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh. Tránh bắt học sinh phải tiếp thu một cách thụ động nguồn tri thức mà thầy giáo đưa ra. Phương pháp mới hiện nay là làm cho người học trở thành chủ thể của quá trình dạy học. Học sinh phải tích cực chủ động trong việc học, giáo viên chỉ là người hướng đạo. Để có tiết dạy thành công, trước khi lên lớp người thầy phải chuẩn bị thật chu đáo, phải thâm nhập kiến thức cho một bài dạy và phải nắm bắt được nội dung của sách giáo khoa. Từ đó mới chủ động việc định hướng bước đi của mình thông qua bài soạn. Sự chuẩn bị của người dạy chu đáo, công phu, sáng tạo và chủ động bao nhiêu thì mang lại hiệu quả của tiết dạy bấy nhiêu.
 Trong lớp học, sắp xếp bàn ghế phù hợp dạy học theo nhóm tạo ra môi trường sư phạm thuận lợi cho việc dạy học. HS được bố trí ngồi theo nhóm (4 -5em) tạo không gian dễ dàng cho việc đi lại giữa cô và trò trong lớp học; GV đến với các nhóm một cách thuận lợi để kiểm tra việc học của từng HS và giúp đỡ điều chỉnh việc làm của các em trong nhóm. Học sinh có cơ hội bộc lộ khả năng thực hiện nhiệm vụ học tập, tự làm việc theo sự phân công của nhóm, làm việc theo nhóm, hợp tác nhóm, báo cáo kết quả trong nhóm,...
 Việc tổ chức một tiết học có tầm quan trọng đặc biệt, nó ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng và hiệu quả giờ học. Giáo viên vận dụng linh hoạt và hiệu quả các phương pháp dạy học tích cực, các PPDH thường được sử dụng trong dạy học các bài mở rộng vốn từ là:
	- Phương pháp đặt và giải quyết vấn đề.
	- Phương pháp trò chơi.
	- Phương pháp hợp tác theo nhóm nhỏ.
	- Phương pháp vấn đáp.
 - Phương pháp luyện tập, thực hành
 GV chú trọng hoạt động học của HS, đến với từng em và nhóm học tập nhiều hơn làm việc chung cho cả lớp, giải đáp ý kiến và vướng mắc của HS thay vì thuyết giảng. HS học theo nhóm là một đặc trưng trong đổi mới cách dạy và học; hầu hết các tiết học về mở rộng vốn từ, HS đã có gần ba phần tư thời gian để làm việc nhóm, cặp và cá nhân một cách khá vui, sinh động và hiệu quả. Các em được thực sự cùng nhau trao đổi, tìm tòi khám phá kiến thức qua các hoạt động học tập để hoàn thành bài tập; chỗ nào chưa rõ thì hỏi cô giáo hoặc bạn trong

Tài liệu đính kèm:

  • docMo rong von tu cho Hoc sinh Lop 5 qua tiet Luyen tu va cau.doc