Một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 khắc phục những sai lầm khi giải bài toán có lời văn

Kính thưa các đồng chí trong Hội đồng Khoa học!

Kính thưa các đồng chí và các bạn đồng nghiệp!

Là một giáo viên đã có 16 năm cống hiến cho sự nghiệp trồng người, tôi luôn luôn tâm huyết với nghề mà mình đã chọn. Trong quá trình dạy học, tôi luôn tích cực tìm tòi, học hỏi để trau dồi cho mình những kinh nghiệm của nghề dạy học. Không chỉ đúc rút, trau dồi những kinh nghiệm cho riêng bản thân mình mà tôi còn muốn trao đổi những kinh nghiệm đó cùng đồng nghiệp.

Trong những năm học trước, tôi đã có một số đề tài sáng kiến kinh nghiệm đạt được giải B, giải C cấp tỉnh. Đó là các đề tài: “Dạy Tập làm văn cho học sinh lớp 5 theo phương pháp tổng hợp kiến thức”, “Rèn kỹ năng nói và viết câu đúng ngữ pháp cho học sinh lớp 5”, “Rèn kỹ năng đọc đúng và diễn cảm cho học sinh lớp 5”.

Năm học 2007- 2008 này, với đề tài “Một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 khắc phục những sai lầm khi giải bài toán có lời văn”, tôi có mong muốn giúp các em học sinh khắc phục những sai lầm, hạn chế khi giải bài toán có lời văn để nâng cao kỹ năng giải toán có lời văn nói riêng và nâng cao chất lượng môn toán nói chung.

Tuy nhiên, đây mới chỉ là những biện pháp của cá nhân tôi nên chắc chắn sẽ còn nhiều khiếm khuyết. Tôi rất mong muốn sẽ nhận được nhiều ý kiến đóng góp, xây dựng của các đồng chí để đề tài “Một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 khắc phục những sai lầm khi giải bài toán có lời văn” của tôi được hoàn thiện hơn và được áp dụng rộng rãi trong quá trình dạy học.

 

doc 18 trang Người đăng hoaian89 Lượt xem 3131Lượt tải 5 Download
Bạn đang xem tài liệu "Một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 khắc phục những sai lầm khi giải bài toán có lời văn", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời tác giả
Kính thưa các đồng chí trong Hội đồng Khoa học!
Kính thưa các đồng chí và các bạn đồng nghiệp!
Là một giáo viên đã có 16 năm cống hiến cho sự nghiệp trồng người, tôi luôn luôn tâm huyết với nghề mà mình đã chọn. Trong quá trình dạy học, tôi luôn tích cực tìm tòi, học hỏi để trau dồi cho mình những kinh nghiệm của nghề dạy học. Không chỉ đúc rút, trau dồi những kinh nghiệm cho riêng bản thân mình mà tôi còn muốn trao đổi những kinh nghiệm đó cùng đồng nghiệp.
Trong những năm học trước, tôi đã có một số đề tài sáng kiến kinh nghiệm đạt được giải B, giải C cấp tỉnh. Đó là các đề tài: “Dạy Tập làm văn cho học sinh lớp 5 theo phương pháp tổng hợp kiến thức”, “Rèn kỹ năng nói và viết câu đúng ngữ pháp cho học sinh lớp 5”, “Rèn kỹ năng đọc đúng và diễn cảm cho học sinh lớp 5”.
Năm học 2007- 2008 này, với đề tài “Một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 khắc phục những sai lầm khi giải bài toán có lời văn”, tôi có mong muốn giúp các em học sinh khắc phục những sai lầm, hạn chế khi giải bài toán có lời văn để nâng cao kỹ năng giải toán có lời văn nói riêng và nâng cao chất lượng môn toán nói chung.
Tuy nhiên, đây mới chỉ là những biện pháp của cá nhân tôi nên chắc chắn sẽ còn nhiều khiếm khuyết. Tôi rất mong muốn sẽ nhận được nhiều ý kiến đóng góp, xây dựng của các đồng chí để đề tài “Một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 khắc phục những sai lầm khi giải bài toán có lời văn” của tôi được hoàn thiện hơn và được áp dụng rộng rãi trong quá trình dạy học.
Tôi xin chân thành cảm ơn các đồng chí!
Tòng Bạt, ngày 30 tháng 5 năm 2008
Tác giả:
Nội dungcủa đề tài
Tên đề tài:
Một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 khắc phục những sai lầm khi giải bài toán có lời văn
Lý do chọn đề tài:
Giải bài toán có lời văn là một bộ phận không thể thiếu được trong nội dung chương trình Toán tiểu học nói chung và nội dung chương trình Toán 3 nói riêng. Giải bài toán có lời văn chính là học sinh bước đầu vận dụng các kiến thức, kỹ năng của môn Toán để giải quyết những vấn đề đơn giản, thường gặp trong cuộc sống hàng ngày. Tuy nhiên, giải bài toán có lời văn luôn bị coi là vấn đề khó đối với học sinh. Ngay từ lớp 1, lớp 2, các em đã được làm quen với việc giải các bài toán có lời văn nhưng chỉ là những bài toán hết sức đơn giản, chỉ có một bước tính. Lên lớp 3, các em bắt đầu gặp phải những bài toán có mối quan hệ phức tạp hơn, quá trình giải phải thực hiện bằng hai bước tính. Do đó các em gặp phải không ít những khó khăn, đồng thời dễ mắc phải một số sai lầm khi giải các bài toán có lời văn. 
Là một giáo viên dạy lớp 3, tôi có mong muốn tìm ra những biện pháp hữu hiệu giúp các em tháo gỡ những khó khăn cũng như khắc phục những sai lầm trong quá trình giải các bài toán có lời văn. 
Đó chính là lý do để tôi chọn đề tài “Một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 khắc phục những sai lầm khi giải bài toán có lời văn”
Phạm vi và thời gian thực hiện đề tài
Đề tài “Một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 khắc phục những sai lầm khi giải bài toán có lời văn” được tôi áp dụng thực hiện đối với học sinh lớp 3A Trường Tiểu học Tòng Bạt, năm học 2007-2008
 1/ Sĩ số: 33 học sinh
 Nam: 17 em 
Nữ: 16 em
2/ Đặc điểm tình hình: 
a/ Thuận lợi:
- Đa số các em đều ngoan ngoãn, lễ phép, biết vâng lời thầy cô giáo, đoàn kết bạn bè tốt.
- Đa số các em đều ham học, thích học môn toán; kỹ năng đọc, viết tương đối tốt. 
b/ Khó khăn: 
- Sĩ số lớp tương đối đông, một số em lưu ban, một số em mới chuyển từ lớp khác đến.
- Phần lớn các em đều là con nông dân, điều kiện gia đình còn nhiều khó khăn nên sự quan tâm của phụ huynh đối với việc học tập của các em còn nhiều hạn chế. 
Quá trình thực hiện đề tài
A-Tình trạng thực tế và số liệu điều tra trước khi thực hiện đề tài:
Qua việc trực tiếp giảng dạy các em, tôi nhận thấy kỹ năng giải toán có lời văn bằng hai phép tính của nhiều em còn hạn chế. Các em gặp phải một số sai lầm như: 
-Thực hiện thiếu phép tính. 
-Câu trả lời chưa đúng .
-Ghi danh số sai, ghi đáp số sai 
Để nắm được cụ thể về thực trạng của các em trong lớp về kỹ năng giải bài toán có lời văn bằng hai phép tính, tôi tiến hành cho các em làm bài kiểm tra khảo sát. Với thời gian 40 phút, các em phải trình bày bài làm gồm 4 bài:
-Bài 1: Thực hiện phép tính (2 điểm)
-Bài 2: Tìm x (2 điểm)
-Bài 3 và bài 4 là hai bài toán có lời văn giải bài toán bằng hai phép tính. Kết quả thu được như sau:
 Điểm
Kết quả
1-2
3-4
5-6
7-8
9-10
Số lượng
0
10
10
6
7
%
0
30,3
30,3
18,1
21,3
Điểm	 1,2	 3, 4	5, 6	7, 8	9, 10
Kết quả
Số lượng 0 10 10 6 7
 % 0 30,3 30,3 18,1 21,3	
%	0	30,3 	30,3	18,1	21,3
Trong đó, đa số các em đều làm tốt bài 1 và bài 2. Số các em đạt điểm 3, 4, 5, 6 là do các em làm sai ở hai bài toán có lời văn. 
B- Các biện pháp thực hiện:
1/ Phát hiện, phân loại những sai lầm mà học sinh hay mắc.
2/ Hướng dẫn học sinh khắc phục những sai lầm khi phân tích đè toán và nhận dạng bài toán. 
3/ Hướng dẫn học sinh khắc phục những sai lầm khi thực hiện các bước giải bài toán.
4/ Tổ chức thành lập Câu lạc bộ Toán học.
C- Biện pháp thực hiện và những dẫn chứng cụ thể
 1/ Phát hiện phân loại những sai lầm mà học sinh hay mắc:
Muốn khắc phục những sai lầm thì việc đầu tiên là phải tìm ra những sai lầm đó. Thông qua việc theo dõi các em hàng ngày trên lớp và thông qua bài kiểm tra khảo sát, tôi nhận thấy các em mắc phải một số sai lầm sau:
- Không biết phân tích đề toán dẫn đến không tìm ra được hướng giải.
- Xác định sai dạng toán dẫn đến cách giải sai. 
- Câu trả lời sai. 
- Tính toán sai.
- Ghi danh số sai.
- Ghi đáp số sai  
Tuy nhiên không phải tất cả các em đều mắc tất cả những sai lầm trên mà mỗi em chỉ mắc một hoặc hai sai lầm khác nhau. Do đó, nhất thiết giáo viên phải phân loại thành các nhóm học sinh mắc chung một sai lầm để có biện pháp khắc phục cụ thể cho từng sai lầm đó.
2/ Hướng dẫn học sinh khắc phục những sai lầm khi phân tích đề toán và nhận dạng bài toán :
Việc hướng dẫn học sinh phân tích, nhận dạng đề toán có vai trò hết sức quan trọng trong qúa trình giải bài toán, bởi các em chỉ có thể giaỉ bài toán một cách chính xác khi các em đã nắm vững yêu cầu của bài toán đó. Chính vì vậy, tôi đặc biệt chú ý đến việc hướng dẫnhọc sinh phân tích đề toán và nhận dạng bài toán.
Với mỗi bài toán, tôi thường yêu cầu học sinh đọc đề toán ít nhất là 3 lần và sau khi đọc đề toán cần phải xác định được : Đề toán cho biết những gì? Đề toán yêu cầu ta phải tìm cái gì?. Thời gian đầu, tôi trực tiếp hỏi học sinh những câu hỏi đó. Khi học sinh trả lời trước lớp, tôi luyện cho các em cách trả lời những câu hỏi này không phải là đọc lại đề bài một cách máy móc mà phải thực sự hiểu những số liệu mà đề bài đã cho cũng như những cái mà đề toán yêu cầu phải tìm.
Ví dụ: Bài 1 – Tiết 50: Giải bài toán bằng hai phép tính
Anh có 15 tấm bưu ảnh, em có ít hơn anh 7 tấm bưu ảnh. Hỏi cả hai anh em có bao nhiêu tấm bưu ảnh? 
Sau khi học sinh đọc kỹ đề bài, tôi hỏi:
-Bài toán cho chúng ta biết những gì? 
Cả lớp đều giơ tay. Một học sinh được gọi đã trả lời:
Bài toán cho biết: anh có 15 tấm bưu ảnh, em có ít hơn anh 7 tấm bưu ảnh.
Tôi hỏi lại: “ Vậy bài toán cho biết số bưu ảnh của anh là bao nhiêu?” thì số học sinh giơ tay giảm đi một nửa. 
Điều đó cho thấy rằng khi được cô giáo hỏi “Bài toán cho biết những gì?” thì các em chỉ đọc lại đề một cách máy móc chứ chưa hiểu thật chính xác những số liệu mà đề toán đã cho. Do vậy, tôi nhắc các em khi đọc đề toán cần nắm chắc, hiểu rõ những số liệu mà đề toán đã cho. “Anh có 15 tấm bưu ảnh” chính là đề bài đã cho biết: số bưu ảnh của anh là 15 tấm.
Cũng như vậy, khi tôi hỏi “Bài toán yêu cầu ta tìm cái gì?” thì học sinh đều trả lời là “Hỏi cả hai anh em có bao nhiêu bưu ảnh?”. Giáo viên phải giải thích cho các em: “như vậy là bài toán yêu cầu tìm số bưu ảnh của cả hai anh em”.
Với cách hướng dẫn kỹ càng như vậy, các em đã dần dần nắm vững cách phân tích các đề toán. Sau khi đọc mỗi đề toán, tôi cho các em hỏi - đáp theo cặp để phân tích đề toán. Từ đó thay bằng việcgiáo viên hỏi – học sinh trả lời, tôi có thể mời một cặp học sinh hỏi - đáp trước lớp để phân tích đề toán.
Sau khi đã phân tích kỹ đề toán, việc hướng dẫn các em tóm tắt đề toán cũng vô cùng quan trọng bởi các em tóm tắt được đề toán chính xác có nghĩa là các em đã hiểu kỹ về đề toán đó. Việc hình thành thói quen và kỹ năng tóm tắt đề toán được tiến hành song song với việc phân tích đề toán.
Trước hết, tôi tạo cho các em có thói quen tóm tắt đề toán bằng cách: bất kỳ bài toán nào (dù là bài tập trên lớp, bài tập ở nhà hay bài kiểm tra) tôi đều yêu cầu các em có phần tóm tắt đề toán, sau đó mới trình bày bài giải ở phía dưới. Khi chấm điểm, tôi không chỉ chấm điểm phần bài giải mà cho cả điểm ở phần tóm tắt. Như vậy bắt buộc tất cả các bài làm của các em đều phải có phần tóm tắt. Và dần dần tôi đã hình thành được ở các em thói quen này.
Không phải bất cứ học sinh nào cũng dễ dàng tóm tắt được đề toán (mặc dù có thể các em đã hiểu kỹ đề toán đó). Do vậy, sự hướng dẫn kỹ càng của cô là điều rất cần thiết. Tuỳ từng bài toán, tôi có thể hướng dẫn các em tóm tắt bằng lời hoặc bằng sơ đồ. 
Với những bài toán tóm tắt bằng lời, tôi luôn nhắc nhở các em cần dùng từ ngữ ngắn gọn, rõ ràng, nhưng phải nêu được đầy đủ những dữ kiện của bài toán và phải đảm bảo tính chính xác, khoa học.
Ví dụ: Bài tập 2- Tiết 66: Luyện tập
Mẹ Hà mua 4 gói kẹo và 1 gói bánh, mỗi gói kẹo cân nặng 130g và gói bánh cân nặng 175g. Hỏi mẹ Hà đã mua tất cả bao nhiêu gam kẹo và bánh?
Học sinh được gọi lên bảng đã tóm tắt như sau:
Mẹ Hà mua: 4 gói kẹo và 1gói bánh.
Mỗi gói kẹo nặng: 130g.
Gói bánh nặng: 175g.
Mẹ Hà mua: ? gam kẹo và bánh.
Khi chữa bài trước lớp, tôi vẫn thừa nhận phần tóm tắt của học sinh đó là đúng nhưng cần phải sửa lại cho ngắn gọn, dễ hiểu hơn như sau:
Mỗi gói kẹo nặng: 130g.
Gói bánh nặng: 175g.
4 gói kẹo và 1 gói bánh nặng: ? gam. 
Với những bài toán có thể tóm tắt bằng sơ đồ đoạn thẳng (phần lớn các bài toán ở lớp 3 đều có thể tóm tắt bằng sơ đồ đoạn thẳng). Tôi luôn yêu cầu các em phải chia tỷ lệ chính xác (cách thuận tiện và dễ dàng nhất là sử dụng những ô ly trong vở để chia tỷ lệ); điền đầy đủ những chữ và số liệu cần thiết sao cho chỉ cần nhìn vào sơ đồ là có thể đọc lại được đề toán.
Ví dụ: Bài tập 3- Tiết 58: Luyện tập
Thu hoạch ở thửa ruộng thứ nhất 127kg cà chua, ở thửa ruộng thứ hai được nhiều gấp 3 lần số cà chua ở thửa ruộng thứ nhất. Hỏi thu hoạch ở cả hai thửa ruộng được bao nhiêu ki- lô -gam cà chua?
Giáo viên phải hướng dẫn để học sinh tóm tắt được như sau:
 127 kg
Thửa ruộng thứ nhất:	? kg 
Thửa ruộng thứ hai: 	cà chua
Từ việc phân tích kỹ đề toán, tóm tắt được đề toán, giáo viên giúp các em xác định dạng toán để tìm ra cách giải vì mỗi dạng toán có cách giải khác nhau.
Trong thực tế, các em cũng rất hay nhầm lẫn giữa các dạng toán như: Bài toán có liên quan đến gấp lên một số lần và bài toán có liên quan đến giảm đi một số lần; bài toán có liên quan đến rút về đơn vị dạng bài tìm giá trị của nhiều phần và dạng bài tìm số phần  Với những dạng toán dễ nhầm lẫn này trước khi thực hiện bài giải học sinh phải nêu được tên dạng toán và các bước giải dạng toán đó. 
Nói tóm lại, nhờ có những biện pháp hướng dẫn học sinh phân tích đề toán và nhận dạng bài toán tôi đã giúp các em khắc phục được những sai lầm khi tìm hướng giải cho từng bài toán cụ thể.
3/ Hướng dẫn học sinh khắc phục những sai lầm khi thực hiện các bước giải bài toán:
Trong quá trình thực hiện bài giải, các em cũng mắc không ít những sai lầm. Sai lầm mà các em thường hay mắc nhất là câu trả lời sai. 
Đối với các bài toán giải bằng một phép tính, các em dễ dàng tìm được câu trả lời nhờ vào câu hỏi của đề toán. Sang bài toán giải bằng hai phép tính, do có một bước tính trung gian nên các em khó trình bày thành một câu trả lời hoàn chỉnh cho phép tính đó.
Việc khắc phục sai lầm này phần lớn dựa vào việc hướng dẫn học sinh lập kế hoạch giải bài toán. Để hướng dẫn học sinh lập kế hoạch giải bài toán, tôi dùng hệ thống câu hỏi đi từ phân tích đến tổng hợp. Bao giờ câu hỏi đầu tiên của phần lập kế hoạch giải cũng phải xuất phát từ cái mà đề bài yêu cầu phải tìm. để tìm được ẩn số đó, ta cần biết thêm cái gì? Điều quan trọng khi hướng dẫn học sinh lập kế hoạch giải là giáo viên cần hướng dẫn học sinh thiết lập được mối quan hệ giữa:
- Cái cần tìm với cái đã cho biết và cái chưa cho biết.
- Cái chưa cho biết với cái đã cho biết.
Từ đó tìm ra “nút thắt” đầu tiên cần phải tháo gỡ. Sau đó, bằng hệ thống câu hỏi tổng hợp, giáo viên giúp học sinh thiết lập các bước giải bài toán:
- Vậy bài toán có mấy phép tính?
- Phép tính thứ nhất ta tìm cái gì?
- Phép tính thứ hai ta tìm cái gì?
Sau khi học sinh nắm được cái cần tìm ở từng phép tính, tôi thường nhấn mạnh để học sinh biết: ở mỗi phép tính, ta tìm cái gì thì trả lời về cái đó.
Ví dụ: Bài tập 3 – Tiết 58: Luyện tập (đề bài như ở trên)
Giáo viên hỏi học sinh: “Phép tính thứ nhất ta tìm cái gì?”. Học sinh trả lời: “Phép tính thứ nhất ta tìm số cà chua thu hoạch được ở thửa ruộngthứ hai”. Giáo viên nhấn mạnh: “Ta tìm số cà chua thu hoạch ở thửa ruộng thứ hai nên ta phải trả lời: Thửa ruộng thứ hai thu hoạch được số cà chua là:”. Tương tự như vậy, phép tính thứ hai ta tìm số cà chua thu hoạch được ở cả hai thửa ruộng nên phải trả lời là: “Cả hai thửa ruộng thu hoạch được số cà chua là:”.
Tính toán sai cũng là một lỗi mà một số ít học sinh gặp phải. Trường hợp này rơi vào một số em kỹ năng tính toán quá yếu do các em chưa thuộc kỹ các bảng cộng, trừ, nhân, chia hoặc chưa nắm vững kỹ thuật tính toán. Đối với các em này, cùng với việc hướng dẫn các em nắm vững cách phân tích đề và lập kế hoạch giải bài toán, tôi còn yêu cầu các em học thuộc lại các bảng cộng, trừ, nhân, chia và nắm vững lại kỹ thuật tính toán.
Bên cạnh việc ghi câu trả lời sai, tính toán sai, một số em còn ghi sai danh số sau mỗi phép tính.
Ví dụ: Bài tập 4 – Tiết 103: Luyện tập
Một kho có 4720kg muối, lần đầu chuyển đi 2000kg muối, lần sau chuyển đi 1700kg muối. Hỏi trong kho còn lại bao nhiêu ki- lô- gam muối?
Một số học sinh đã trình bày bài giải như sau:
Cả hai lần chuyển đi số muối là:
2000 + 1700 =3700 (muối)
Số muối còn lại trong kho là:
4720 - 3700 = 1020 (muối)
Đáp số: 1020 muối.
Như vậy, rõ ràng các em không xác định được danh số phải ghi sau mỗi phép tính trên là gì. Để khắc phục tình trạng này, giáo viên cần yêu cầu học sinh bám chắc vào các câu hỏi tổng hợp khi lập kế hoạch giải toán. Yêu cầu các em phải xác định được: “Phép tính thứ nhất ta tính số ki- lô- gam muối chuyển đi ở cả hai lần, phép tính thứ hai ta tính số ki- lô- gam muối còn lại”. Như vậy, danh số phải ghi sau mỗi phép tính là kg.
Bài tập 4- Tiết 126: Luyện tập
Mẹ mua một hộp sữa hết 6700 đồng và một gói kẹo hết 2300 đồng. Mẹ đưa cô bán hàng 10.000 đồng. Hỏi cô bán hàng phải trả lại mẹ bao nhiêu tiền?
Một số học sinh trình bày như sau:
Mẹ mua sữa và kẹo hết số tiền là:
6700 + 2300 = 9000 (tiền)
Cô bán hàng phải trả lại mẹ số tiền là:
10.000 – 9000 = 1000 (tiền)
Đáp số: 1000 tiền
 Trường hợp này, học sinh nhầm lẫn do câu hỏi của đề toán: “Hỏi cô bán hàng phải trả lại mẹ bao nhiêu tiền?”. Học sinh lầm tưởng tiền là danh số ghi sau các phép tính. Để giúp các em khắc phục sai lầm này, tôi giải thích để các em hiểu: Danh số ghi sau các phép tính thường là các đơn vị đo đại lượng như: ki – lô- gam, gam; mét, xăng –ti – mét, đề- xi- mét, ki – lô- mét; lít; xăng- ti- mét vuông; ngày, giờ; đồnghoặc là các từ chỉ sự vật có thể đếm được như: quyển sách, quả táo, học sinh
Một sai lầm nữa mà các em thường gặp phải khi trình bày bài giải là ghi đáp số sai (thường là ghi thừa đáp số). Các em thường ghi kết quả của cả hai phép tính vào đáp số. Đối với trường hợp này, tôi phải nhấn mạnh để các em thấy rõ: Bài toán yêu cầu tìm cái gì thì ghi kết quả đó vào đáp số
Nói tóm lại, trong quá trình thực hiện các bước giải bài toán có lời văn, học sinh đã mắc không ít những sai lầm. Sai lầm nào cũng có những nguyên nhân của nó. Điều quan trọng là giáo viên phải tìm ra đúng nguyên nhân mắc sai lầm để từ đó có biện pháp cụ thể giúp các em khắc phục những sai lầm đó.
4/ Tổ chức thành lập Câu lạc bộ Toán học.
Như chúng ta đều thấy, nội dung kiến thức của mỗi tiết toán là khá nặng. Với thời lượng là 40 phút, giáo viên chỉ có thể giúp các em nắm được những kiến thức cơ bản của tiết học nói chung và của các bài toán có lời văn nói riêng. Mặt khác, do nhà trường chưa có điều kiện học hai buổi / ngày nên giáo viên khó có điều kiện mở rộng và nâng cao kiến thức cho học sinh. Để thay đổi không khí học toán vốn căng thẳng khô cứng trở nên thoải mái, hấp dẫn, gây hứng thú hơn, đồng thời tạo điều kiện để mở rộng, nâng cao hơn kiến thức môn toán cho các em, tôi cho thành lập “Câu lạc bộ Toán học lớp 3A” với 100% số học sinh trong lớp tham gia. Số thành viên được chia đều thành hai nhóm (trình độ của các thành viên trong hai nhóm tương đương nhau).
Câu lạc bộ sinh hoạt theo định kỳ 2 tuần một lần vào các giờ sinh hoạt Đội – sao. Nội dung và hình thức sinh hoạt như sau:
Trong thời gian 2 tuần (khoảng thời gian giữa hai kỳ sinh hoạt), mỗi em trong nhóm có nhiệm vụ sưu tầm một đề toán (bài toán có lời văn) có phạm vi kiến thức là những nội dung mà các em đã được học (Có thể sưu tầm ở báo Nhi đồng, Tạp chí Toán tuổi thơ hay ở những sách toán nâng cao của lớp 3). Nhóm trưởng sẽ tập hợp và dưới sự cố vấn củacô giáo, sẽ lựa chọn một đề toán hay nhất để đố nhóm bạn. Nhưng trước khi đố nhóm bạn, cả nhóm phải được thông qua đề toán đó, tự mỗi em phải trình bày cách giải bài toán đó để nộp cho nhóm trưởng. Dưới sự cố vấn của cô giáo, nhóm trưởng sẽ chọn ra những bài làm đúng và có trách nhiệm phổ biến các cách làm đúng để các bạn trong nhóm cùng nắm được. Từ việc lựa chọn đề toán đến việc phổ biến cách giải bài toán đó đều được bí mật trong mỗi nhóm.
Đến ngày sinh hoạt, mỗi nhóm sẽ đố nhóm bạn đề toán của nhóm mình và nhận đề toán mà nhóm bạn đố. Sau đó cả nhóm sẽ thảo luận để tìm ra cách giải bài toán được nhóm bạn đố và cử một bạn đại diện cho nhóm trình bày cách giải trước lớp. Giáo viên sẽ làm trọng tài để chữa bài và chấm điểm bài làm của các nhóm. Buổi sinh hoạt cuối cùng, giáo viên cộng điểm, tổng kết và trích quỹ lớp để thưởng cho nhóm được tổng số điểm cao hơn.
Với cách tổ chức như vậy, các em đã sưu tầm được rất nhiều đề toán hay. Câu lạc bộ đã sinh hoạt được 16 buổi, số bài toán được giải là 32 bài. Tôi đã có điều kiện để giúp các em tiếp cận với nhiều bài toán hay, với nhiều cách giải phong phú, góp phần nâng cao kỹ năng giải toán có lời văn cho đại bộ phận học sinh trong lớp.
Kết quả thực hiện có so sánh đối chứng
Sau một thời gian áp dụng đề tài “Một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 khắc phục những sai lầm khi giải bài toán có lời văn”, tôi nhận thấy học sinh trong lớp đã có tiến bộ. Kết quả bài kiểm tra cuối kỳ I môn toán đạt được như sau: 
Điểm 
Kết quả
1-2
3-4
5-6
7-8
9-10
Sốlượng
0
6
8
10
9
%
18,2
24,2
30,3
27,3
Kết quả đạt được như vậy càng đem lại hứng thú cho cả cô và trò. Tôi tiếp tục áp dụng các biện pháp trên để giúp các em khắc phụcnhững sai lầm khi giải toán. Do vậy, kỹ năng giải toán của các em tiếp tục được nâng cao. Kết quả bài kiểm tra định kỳ cuối kỳ II môn toán đạt được như sau:
Điểm 
Kết quả
1-2
3-4
5-6
7-8
9-10
Số lượng
0
1
10
12
10
%
3
30,3
36,4
30,3
Với kết quả đạt được như vậy, có thể khẳng định rằng, đề tài “Một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 khắc phục những sai lầm khi giải bài toán có lời văn” được tôi áp dụng với học sinh lớp 3A- Trường Tiểu học Tòng Bạt đã thành công và đem lại kết quả tốt đẹp.
ý kiến nhận xét đánh giá và xếp loại
của Hội đồng khoa học cơ sở
Chủ tịch Hội đồng
(Ký tên, đóng dấu)
ý kiến nhận xét đánh giá và xếp loại
của Hội đồng Khoa học cấp huyện

Tài liệu đính kèm:

  • docSKKN 1 so BP sua sai lam cua hs lop 3 khi giai toan co loi van.doc